Lịch sử phát triển của Quốc hội gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Qua 11 khóa hoạt động, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tính đại diện cao nhất của Quốc hội nước ta thể hiện ở chỗ:
1 - Quốc hội có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân.
2 - Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên cơ sở sự tín nhiệm của nhân dân, do nhân dân ủy quyền.
3 - Quốc hội do toàn dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đại biểu Quốc hội có cơ cấu, thành phần phản ánh sự đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân và các dân tộc.
Vì vậy, Quốc hội là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. "Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi".
Quốc hội và các đại biểu của Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của mình như tham dự các phiên họp, nghe chất vấn, trả lời chất vấn, và thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo hoạt động tại đơn vị đã bầu cử mình.
Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành ba chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Đó là: Chức năng lập hiến và lập pháp; Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2566 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chức năng lập hiến và lập pháp, giám sát tối cao của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của Quốc hội gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Qua 11 khóa hoạt động, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tính đại diện cao nhất của Quốc hội nước ta thể hiện ở chỗ:
1 - Quốc hội có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân.
2 - Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên cơ sở sự tín nhiệm của nhân dân, do nhân dân ủy quyền.
3 - Quốc hội do toàn dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đại biểu Quốc hội có cơ cấu, thành phần phản ánh sự đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân và các dân tộc.
Vì vậy, Quốc hội là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. "Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi".
Quốc hội và các đại biểu của Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của mình như tham dự các phiên họp, nghe chất vấn, trả lời chất vấn, và thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo hoạt động tại đơn vị đã bầu cử mình.
Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành ba chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Đó là: Chức năng lập hiến và lập pháp; Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
NỘI DUNG
1. Chức năng lập hiến và lập pháp:
Về chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật. Hiến pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, bởi vì nó thể hiện những đường lối cơ bản, những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Các quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến- quyền làm ra Hiến pháp, đặt ra các quy định cơ bản nhất làm nền tảng cho hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là quyền mà không cơ quan nhà nước nào có được, trừ Quốc hội. Chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và luật.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng nhất về quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ văn hóa xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp và luật thực hiện đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được nhà nước thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn bộ lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có hiệu lực pháp lí sau Hiến pháp. Các quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và không được trái với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Công tác lập pháp, chúng ta chưa có được một chương trình lập pháp theo quy hoạch đầy đủ, chủ động và dài hơn, mà còn dừng lại ở các chương trình ngắn hạn lại thường do các Bộ, ngành đề xuất theo cảm tính nên thường bị động, lúng túng chắp vá, có Luật chưa thật cần thiết thì lại đưa vào để xem xét. Có vấn đề thực tế đang đòi hỏi thì chưa được quan tâm, thậm chí có vấn đề rất lớn và cụ thể cần kịp thời đề cập từ nhiều năm, thậm chí có vấn đề từ những Hiến pháp 1946 cho đến Hiến pháp năm 1992 nhưng vẫn chưa được xem xét như vấn đề quy định về quyền của dân, mọi quyền lực là ở nhân dân, nhưng đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ, nhất là quyền được quyết định của dân trong đó có trưng cầu ý dân, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp v.v... Một số Luật ban hành còn thiếu cụ thể, còn chờ văn bản hướng dẫn nên thực hiện chậm, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật yếu, Luật không đến được với dân, chưa hình thành được nhiều Bộ luật, trong khi còn để rải rác nhiều luật có nội dung giống nhau nên khó cho quá trình áp dụng và thực hiện.
Trong nhiệm kỳ qua, đã có bước tiến rất quan trọng, từ trình tự xem xét cho ý kiến cũng như cách thức thông qua các dự án luật tại kỳ họp. Từ đó tăng lên đáng kể cả về số lượng, chất lượng, góp phần quan trọng thực hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy công tác lập pháp trong nhiệm kỳ vừa qua còn tồn tại những yếu kém nhất định, cử tri rất quan tâm, Quốc hội cũng đã nhận thấy, nhưng khắc phục còn quá chậm, khi phần lớn các dự án luật, pháp lệnh trình lên Quốc hội trong các nhiệm kỳ vừa qua đều giao cho Bộ, ngành chủ quản soạn thảo. Từ đó sẽ không tránh khỏi tình trạng có những điều, khoản còn xa rời thực tế cuộc sống, có những hạn chế, không hợp lý mà còn mang nặng lợi ích của Bộ, ngành mình, có những điều khoản chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với các luật khác có liên quan, nên khi luật có hiệu lực pháp luật thì rất khó đi vào cuộc sống, đó là chưa kể có những vấn đề khó quá mà Quốc hội để lại cho Chính phủ để hướng dẫn thi hành. Cho nên trong các điều khoản của luật, bộ luật chúng ta thường gặp câu là "theo quy định của Chính phủ" nên nhiều luật có hiệu lực pháp luật mà phải nằm chờ nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành nên giảm hiệu lực của luật được Quốc hội thông qua. Liên quan đến vấn đề này, trong nhiệm kỳ tới, Quốc hội nên hạn chế việc giao cho bộ, ngành chủ quản soạn thảo các dự án luật có liên quan đến ngành mình, mà phát huy vai trò các cơ quan của Quốc hội. Bên cạnh đó cũng cần quy định chặt chẽ kèm theo những dự án luật trình Quốc hội, phải có những dự thảo nghị định hướng dẫn để thi hành, đảm bảo những dự án luật thông qua khi có hiệu lực đi vào cuộc sống mà không phải nằm chờ các văn bản dưới luật hướng dẫn như hiện nay. Đồng thời Quốc hội cũng phải quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức và trong nhân dân. Vì vấn đề này trong thời gian qua việc thực hiện còn rất hạn chế, luật thông qua thì rất nhiều, nhưng nhân dân nắm và hiểu luật còn rất khiêm tốn. Nên chăng, Quốc hội thử khảo sát lại xem trong 84 luật, bộ luật được Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ này thì trong đó nhân dân ta nắm được bao nhiêu để họ có thể thực hiện, qua đó Quốc hội có thể những giải pháp thật hữu hiệu để khắc phục những vấn đề này trong những nhiệm kỳ tới.
2. Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
Đó là các vấn đề liên quan đến chính sách chiến lược về kinh tế xã hội, lĩnh vực đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhân sự cao cấp của nhà nước, các mối quan hệ xã hội và các hoạt động của công dân.
Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc hội bầu, miễn nhiệm chủ tịch nước, phó chủ tịch nước, chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội, thành lập chính phủ, bầu chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát tối cao, quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Về lĩnh vực kinh tế- xã hội: Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, hàm cấp trong lực lượng vũ trang.
Về vấn đề chiến tranh và hòa bình, Quốc hội quyết định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia.
Quốc hội quyết định đại xá, quyết định trưng cầu ý dân, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.
Về đối ngoại, Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã kí kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch.
Quốc hội cũng đã quyết định rất nhiều vấn đề quan trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Trong đó, quyết định những công trình quan trọng quốc gia, liên quan đến vấn đề này, Quốc hội cần có tổng kết để đánh giá lại về hiệu quả cũng như sự tác động của công trình đối với đời sống của nhân dân. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, chưa có tiến bộ nhiều, hình thức còn tồn tại khá lớn, vì thời gian công sức, phương thức dành cho vấn đề này chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Nhiều vấn đề Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn bị động, phụ thuộc vào cơ quan trình nên vai trò chưa được phát huy, ít quan tâm thích đáng đến việc tuyên truyền lợi ích xã hội của các công trình quan trọng quốc gia. Việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân, các nhà khoa học về các chuyên ngành có liên quan đến công trình còn ít. Cơ chế phản biện của Quốc hội còn thiếu, yếu, đại biểu Quốc hội ít thông tin, dẫn đến quyết định xuôi chiều theo định hướng sẵn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cần chỉ đạo tốt hơn nữa cơ quan có trách nhiệm thẩm định các nội dung thông tin liên quan tới những vấn đề Chính phủ trình Quốc hội. Vì đây là thông tin hết sức quan trọng để các đại biểu Quốc hội khi biểu quyết thông qua.
Trong kỳ họp của Quốc hội thì quyết định được một số công trình quan trọng quốc gia, cũng phải khẳng định được là thảo luận cũng dân chủ, tranh thủ được các ý kiến của các chuyên gia trên các quyết định của các công trình quan trọng đã vào được với cuộc sống và đáp ứng được kịp thời, kể cả về lâu dài. Việc quyết định của Quốc hội nói chung, của đại biểu Quốc hội nói riêng vẫn dựa vào đề xuất của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của các cơ quan Quốc hội là chính, chứ các đại biểu Quốc hội chưa có điều kiện phát hiện hoặc có phát hiện ra vấn đề gì thì cũng chưa thể đưa ra những lý lẽ thuyết phục để có sự thay đổi.
3. Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội:
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Các hoạt động giám sát của Quốc hội Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau dây:
- Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Xem xét báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
Thẩm quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội:
- Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội.
- Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách; giúp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của các cơ quan này.
- Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
- Đại biểu Quốc hội chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quốc hội và các thể chế nhà nước khác được quy định ở chỗ: Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những người đứng đầu các cơ quan nhà nước khác, nhiệm kỳ hoạt động của các cơ quan nhà nước do Quốc hội quy định theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Các cơ quan nhà nước ở trung ương do được Quốc hội bầu, hoặc có thể bị bãi miễn, nên rất phụ thuộc vào sự tín nhiệm của Quốc hội. Những cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội, có trách nhiệm báo cáo công tác của mình trước Quốc hội. Những cá nhân do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nếu phạm sai lầm sẽ bị Quốc hội xem xét để miễn, hoặc bãi nhiệm. Mặt khác, mỗi cơ quan nhà nước khi được thành lập có phạm vi thẩm quyền nhất định và có tính độc lập trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được đó.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với tất cả hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo cho cho mọi hoạt động của nhà nước đúng pháp luật, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối tượng giám sát của Quốc hội là việc tuân theo Hiến pháp, luật nghị quyết của Quốc hội, hoạt động của các cơ quan Nhà nước của trung ương là chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, tòa án nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các vấn đề được Quốc hội quy định đều phải được tập thể các đại biểu Quốc hội xem xét,chỉ được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp sửa đổi Hiến pháp thì phải có 2/3 tổng số đại biểu tán thành.
Hiến pháp năm 1992 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó phải kể đến nguyên tắc tập trung dân chủ, mà nội dung nguyên tắc này là quyền lực nhà nước phải được triển khai thống nhất, xuyên suốt và quyền lực đó phải chịu sự kiểm soát của nhân dân hay của các cơ quan đại diện.
Thời gian qua, mặc dù Quốc hội đã chú trọng nhiều đến việc thực hiện quyền giám sát của mình, chú ý giảm bớt tính hình thức của hoạt động này, luật hóa cả thẩm quyền, việc xây dựng chương trình, đối tượng, nội dung, phương thức và hậu quả pháp lí của hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn Đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát. Song hiệu quả của hoạt động giám sát chưa được như mong muốn và theo ý kiến của một số Đại biểu Quốc hội thì "Giám sát mới chỉ dừng ở sự kiến nghị, ít đôn đốc và kiểm tra việc giải quyết các kiến nghị, cho nên còn mang tính hình thức…" và "Khâu yếu, có thể nói vẫn là khâu yếu nhất". Để Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất, hoạt động giám sát của Quốc hội cần được đặt đúng tầm, tổ chức chu đáo và phải thường xuyên tăng cường thì mới mang lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng được mong muốn của nhân dân.
Một trong những phương thức giám sát mà các đại biểu Quốc hội đều tham gia thường xuyên, đó là việc tiếp xúc cử tri. Đối với đại biểu không chuyên trách nằm không ở ngay tại địa bàn, cho nên điều kiện tiếp xúc cử tri những nơi bầu ra mình là hết sức hạn chế. Tuy nhiên khi tham gia tiếp xúc có rất nhiều vấn đề mà các cử tri nêu ra thì lẽ ra nó có thể được giải quyết một cách cân bằng với hệ thống các cơ quan dân cử ở địa phương, từ cấp xã đến cấp tỉnh. Rất nhiều vấn đề được đặt ra lặp đi, lặp lại nó phản ảnh rằng phần nào cử tri tin cậy vào đại biểu Quốc hội. Nhưng đồng thời, bộ máy dân cử ở cơ sở Hội đồng nhân dân cũng chưa phát huy hết vai trò của mình. Cho nên, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng nó phải nằm trong một hệ thống các cơ quan dân cử, cần có sự phối hợp tốt sẽ để Quốc hội tập trung vào những vấn đề lớn của đất nước.
Quốc hội cũng đã thực hiện chức năng giám sát tối cao tốt, đặc biệt việc tiến hành giám sát chuyên đề những vấn đề bức xúc trong xã hội được cử tri quan tâm, đáp ứng phần nào sự mong đợi của cử tri cả nước. Tuy nhiên việc xử lý các kết quả giám sát còn rất hạn chế, chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất kiến nghị. Còn giải quyết như thế nào đó là việc của cơ quan hành pháp, về phía Quốc hội không có chế tài gì để xử lý vấn đề này. Tại nhiệm kỳ này có những giám sát chuyên đề, Quốc hội cũng có nghị quyết khá cụ thể, trong đó Quốc hội cũng đã nêu khá rõ những mặt đạt được và chưa được cũng như những giải pháp để mà khắc phục.
KẾT LUẬN
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ðại biểu Quốc hội được cử tri bầu ra tại các đơn vị bầu cử, chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành ba chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Đó là lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao.
- Về chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật. Hiến pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, bởi vì nó thể hiện những đường lối cơ bản, những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Các quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Về chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; quy định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.