Đề tài Chức năng lập pháp của Quốc Hội - Thực trạng và hướng hoàn thiện

Với mỗi quốc gia trờn thế giới luụn cần phải cú một hệ thống phỏp luật để bảo vệ và thỳc đẩy sự phỏt triển toàn diện, Sẽ là rất bất hợp lí và thiếu sót nếu khi nghiên cứu một số vấn đề lí luận về quyền lập pháp mà chúng ta chưa tỡm hiểu cặn kẽ thế nào là lập phỏp, vậy “lập phỏp” là gỡ?. Theo từ điển Bách khoa toàn thư thỡ lập phỏp là hoạt động làm ra luật, cụ thể là việc thực hiện quyền lực và chức năng để làm ra các quy định với tư cách là các đạo luật có sức mạnh cưỡng chế thông qua sự ban hành của cơ quan chính thức của một nhà nước hoặc tổ chức khác, hoặc thông qua hoạt động ban hành luật của một người làm luật hoặc của cơ quan lập pháp. Như vậy , các khái niệm “lập pháp” đều khẳng định chủ thể lập pháp là cơ quan lập pháp. Ở Việt Nam, thẩm quyền này thuộc về Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Điều 83 HP1992). Khái niệm “lập pháp” là như vậy, tuy nhiên hiện nay cũn cú nhiều ý kiến khỏc nhau trong việc hiểu “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” là như thế nào. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền làm luật và sửa đổi luật. Luật phải là hỡnh thức văn bản duy nhất điều chỉnh các loại quan hệ xó hội, do Quốc hội xem xột và quyết định. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, “lập pháp” trong cụm từ “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” phải được hiểu theo nghĩa rộng; theo đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc mọi người thực hiện. Điều này có nghĩa là các quy phạm pháp luật được nói đến ở đây không chỉ là các quy phạm pháp luật được ban hành dưới hỡnh thức văn bản luật mà cũn cú thể dưới hỡnh thức khỏc. Theo ý kiến của nhóm, xét từ góc độ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam, thỡ cụm từ “lập phỏp” ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng này. Việc Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp không đồng nghĩa với việc Quốc hội phải tự mỡnh ban hành tất cả cỏc quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xó hội, mà trong khuụn khổ Hiến phỏp, Quốc hội cú thể ủy quyền cho cỏc cơ quan khác ban hành văn bản có chứa quy phạm pháp luật, Và như vậy quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” vẫn hoàn toàn được bảo đảm thi hành. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xó hội cơ bản. Các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp. Đến đây, ta có thể khẳng định, “quyền lập pháp” là quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc mọi người thực hiện, chứ không chỉ là quyền làm luật và sửa đổi luật. Với những lý do trờn việc tỡm hiểu “Chức năng lập pháp của quốc hội thực trạng và phương hướng hoàn thiện” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2902 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chức năng lập pháp của Quốc Hội - Thực trạng và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Lời Mở Đầu Phần Nội Dung I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUYỀN LẬP PHÁP QUA CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC Chức năng lập pháp của quốc hội việt nam III. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN LẬP PHÁP IV. Thực trạng hoạt động lập pháp của quốc Hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng hoạt động lập pháp của Quốc Hội. 2. Một số phương hướng nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội a. Đổi mới và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội . b. Nâng cao chất lượng của Đại biểu Quốc hội. c. Cải tiến và nâng cao chất lượng các kỳ họp Quốc hội . d. Đổi mới hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội e. Tăng cường bộ máy giúp việc cho Quốc hội và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ soạn thảo g. Đổi mới hoạt động lập, thực hiện chương trình xây dựng luật. h. Tiếp tục đổi mới về thủ tục, trình tự của việc chuẩn bị và ban hành luật. n. Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động lập pháp m. Đảm bảo kinh phí cho hoạt động lập pháp. k. Đảm bảo sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào hoạt động lập pháp. x. Đổi mới hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật. Kết Luận Lời Mở Đầu Với mỗi quốc gia trờn thế giới luụn cần phải cú một hệ thống phỏp luật để bảo vệ và thỳc đẩy sự phỏt triển toàn diện, Sẽ là rất bất hợp lí và thiếu sót nếu khi nghiên cứu một số vấn đề lí luận về quyền lập pháp mà chúng ta chưa tỡm hiểu cặn kẽ thế nào là lập phỏp, vậy “lập phỏp” là gỡ?. Theo từ điển Bách khoa toàn thư thỡ lập phỏp là hoạt động làm ra luật, cụ thể là việc thực hiện quyền lực và chức năng để làm ra các quy định với tư cách là các đạo luật có sức mạnh cưỡng chế thông qua sự ban hành của cơ quan chính thức của một nhà nước hoặc tổ chức khác, hoặc thông qua hoạt động ban hành luật của một người làm luật hoặc của cơ quan lập pháp. Như vậy , các khái niệm “lập pháp” đều khẳng định chủ thể lập pháp là cơ quan lập pháp. Ở Việt Nam, thẩm quyền này thuộc về Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Điều 83 HP1992). Khái niệm “lập pháp” là như vậy, tuy nhiên hiện nay cũn cú nhiều ý kiến khỏc nhau trong việc hiểu “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” là như thế nào. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền làm luật và sửa đổi luật. Luật phải là hỡnh thức văn bản duy nhất điều chỉnh các loại quan hệ xó hội, do Quốc hội xem xột và quyết định. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, “lập pháp” trong cụm từ “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” phải được hiểu theo nghĩa rộng; theo đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc mọi người thực hiện. Điều này có nghĩa là các quy phạm pháp luật được nói đến ở đây không chỉ là các quy phạm pháp luật được ban hành dưới hỡnh thức văn bản luật mà cũn cú thể dưới hỡnh thức khỏc. Theo ý kiến của nhóm, xét từ góc độ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam, thỡ cụm từ “lập phỏp” ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng này. Việc Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp không đồng nghĩa với việc Quốc hội phải tự mỡnh ban hành tất cả cỏc quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xó hội, mà trong khuụn khổ Hiến phỏp, Quốc hội cú thể ủy quyền cho cỏc cơ quan khác ban hành văn bản có chứa quy phạm pháp luật, Và như vậy quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp” vẫn hoàn toàn được bảo đảm thi hành. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xó hội cơ bản. Các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp. Đến đây, ta có thể khẳng định, “quyền lập pháp” là quyền đưa ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc mọi người thực hiện, chứ không chỉ là quyền làm luật và sửa đổi luật. Với những lý do trờn việc tỡm hiểu “Chức năng lập pháp của quốc hội thực trạng và phương hướng hoàn thiện” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Phần Nội Dung I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUYỀN LẬP PHÁP QUA CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC Cho đến nay vẫn chưa có một kết luận cụ thể nào về thời điểm ra đời quyền lập pháp. Nhưng chắc chắn dù hiểu quyền lập pháp theo quan điểm nào đi chăng nữa thỡ quyền lập phỏp cũng do nhà nước quy định và pháp luật bảo đảm thực hiện nên ta có thể khẳng định: sự ra đời quyền lập pháp gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, bởi bất cứ một nhà nước nào cũng cần xây dựng một hệ thống pháp luật và những thiết chế đảm bảo cho hệ thống pháp luật đó được thực hiện. Tuy quyền lập pháp luôn đi cùng với nhà nước và pháp luật nhưng quan niệm về quyền lập pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi kiểu nhà nước khác nhau là khụng giống nhau. Thời kỡ đầu khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, quyền lực nhà nước được tổ chức hết sức đơn sơ, chủ yếu dựa vào sự cưỡng bức của giai cấp chủ nô với tầng lớp nô lệ. Quyền lực nhà nước không được phân chia rạch rũi thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên ở một góc độ nào đó ta vẫn thấy được sự phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Ví dụ như trong bộ máy nhà nước Aten, Lamó… đại hội nhân dân là cơ quan làm luật .Như vậy, ở nhà nước chủ nô, quyền lập pháp đó xuất hiện. Sang đến kiểu nhà nước phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay nhà vua. Nhà vua là người đại diện cho giai cấp phong kiến nắm giữ toàn bộ quyền hành. Vua là người đứng đầu triều đỡnh, nắm giữ quyền ban hành phỏp luật, tổ chức thi hành pháp luật cũng như quyền xét xử tối cao. Giúp việc cho vua là bộ máy quan lại đồ sộ ở TW và địa phương. Có thể thấy ở kiểu nhà nước phong kiến, toàn bộ quyền lực tập trung vào trong tay một người duy nhất là nhà vua. Nhà vua nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và cả quyền tư pháp. Bước sang thế kỉ XVII,XVIII, nhà nước tư bản ra đời cùng với sự phát triển của một loạt các học thuyết mới, tiêu biểu nhất là thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu và thuyết chủ quyền nhân dân của Rousseau, thỡ quyền lực nhà nước bước sang một giai đoạn phát triển mới, với ba quyền lập pháp , hành pháp và tư pháp được tách biệt thành từng quyền độc lập. Có thể thấy các học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước cũng như quan niệm về phân quyền đó xuất hiện từ khỏ lâu trước đó. Vào thời kỡ đầu tiên khi nhà nước tư sản ra đời, tư tưởng tự do và các phong trào đấu tranh đũi bỡnh đẳng mạnh mẽ của nhân dân đó giỳp cho quyền lập phỏp lờn ngụi, bởi cơ quan lập pháp là cơ quan của dân, do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân và cũng là biểu tượng của tự do và bỡnh đẳng. Thời kỡ này đánh dấu sự huy hoàng của lập pháp, khi mà nghị viện quyết định, chính phủ thi hành. Quyền lập pháp khi đó nằm trong tay nghị viện. Ở những giai đoạn phát triển sau của nhà nước tư sản, quyền lập pháp dần trở nên lép vế hơn so với quyền hành pháp. Quyền hành pháp có một ảnh hưởng to lớn đến xó hội cũng như trong hỡnh thức tổ chức quyền lực nhà nước nên người Anh gọi quyền này là thứ quyền lónh đạo quốc dân. Điều này đến ngày nay hầu như vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể Sự phát triển của quyền lập pháp trong các nước xó hội chủ nghĩa mà tiờu biểu là Việt Nam: Trước đây do những nhận thức hạn chế mà thuyết tam quyền phân lập không được vận dụng một cách hợp lí. Trải qua một thời gian dài dưới chế độ tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế nước ta đó tụt hậu rất nhiều so với thế giới. Đứng trước sự lựa chọn phải đổi mới hay là mói mói tụt hậu, đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI đó mạnh dạn đề ra đường lối đổi mới, trong đó có sự nhận thức lại một số quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước. Hiến pháp 1992 ghi nhận sự đổi mới tích cực đó, đó khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vỡ dõn, quyờn lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quốc hội là cơ quan đại diện của nhân dân, do nhân dân bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Về sự hỡnh thành và phỏt triển quyền lập phỏp ở nước ta. chúng ta sé trở lại và bàn kĩ hơn ở chương 2 của luận văn. Chức năng lập pháp của quốc hội việt nam Có thể nói từ khi thành lập tới nay, Quốc hội nước ta luôn luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị. Quốc hội theo quy định của điều 83 Hiến pháp 1992, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, xét về chức năng của Quốc hội vừa là cơ quan đại diện tối cao vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tính đại diện tối cao của Quốc hội được xuất phát từ trật tự hình thành, cơ cấu thành phần của Quốc hội. Quốc hội nước ta là cơ quan cao nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên 4 nguyên tắc: bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhưng khác Hội đồng nhân dân ở chỗ Quốc hội được hình thành từ cử tri cả nước còn Hội đồng nhân đân các cấp do cử tri bầu trực tiếp nhưng chỉ là đại diện cho nhân dân theo một đơn vị hành chính lãnh thổ và chỉ trong phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ đó. Bởi vậy Quốc hội là cơ quan nhà nước tập trung trí tụê toàn dân tộc bao gồm tất cả các đại biểu đại diện cho các dân tộc, các địa phương các giới, các tôn giáo, mọi lứa tuổi và lĩnh vực; đại biểu có thể hoạt động chuyên trách hay kiêm nhiệm. Vì thế theo quy định của Hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội 1992 trong hoạt động của mình, các đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và phải phù hợp với nguyện vọng của toàn thể cử tri cả nước, nếu đại biểu không hoàn thành nhiệm vụ cử tri hoặc không đủ tư cách đại biểu Quốc hội sẽ bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội theo điều 7 Hiến pháp năm 1992. Song song với tính đại diện tối cao thì tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội nước ta cũng được kế thừa qua bốn bản Hiến pháp. Điều này thể hiện sự nhất quán trong xây dựng Bộ máy nhà nước. Tuy nhiên chỉ Hiến pháp 1946 có cách thể hiện khác so với các bản Hiến pháp về sau theo quy định tại điều 22 Quốc hội có tên là Nghị viện. Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức Bộ máy nhà nước của nước ta là nguyên tắc tập quyền Xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất không có sự phân chia nhưng có sự phân công hợp lý giữa ba quyền Lập pháp- Hành pháp- Tư pháp. Quan điểm này bắt nguồn từ tư tuởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn là chủ thể của quyền lực tuy nhiên nhân dân không thể tự nắm giữ quyền lực mà nhân dân trao cho Quốc hội - cơ quan đại diện của nhân dân; như vậy Quốc hội không chỉ là cơ quan đại diện của nhân dân mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quy định này hoàn toàn xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước- nguyên tắc tập quyền Xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta. Tính quyền lực tối cao của Quốc hội được thể hiện rõ nhất thông qua các chức năng của Quốc hội đặc biệt là chức năng lập pháp. Xuất phát từ vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước cũng như từ thực tế xã hội Việt nam cho thấy chức năng lập pháp là một chức năng quan trọng. Điều đó được khẳng định rõ và xuyên suốt trong bốn bản Hiến pháp và ngày càng được kế thừa và phát triển quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong bốn bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Nội dung chức năng lập pháp của Quốc hội nước ta gồm Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật sửa đổi luật và giám sát thi hành luật. Quyền lập pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí tính chất của Quốc hội – Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Vì thế chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh các quan hệ cơ bản nhất của xã hội; các cơ quan nhà nước khác ban hành các quy phạm pháp luật không trái với tinh thần của Hiến pháp luật do Quốc hội ban hành. Để cụ thể hoá Hiến pháp Quốc hội đã ban hành luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và được sửa đổi bổ sung vào năm 2002, đây là cơ sở pháp lý quan trọng quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo luật ban hành quy phạm pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (điều 13), với quy định này một lần nữa khẳng định vai trò của Quốc hội trong hoạt động lập pháp đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt nam đã là thành viên của WTO thì việc nội luật hoá các Điều ước Quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm đáp ứng các yêu cầu của công cuộc hội nhập. Thông qua bốn bản Hiến pháp có thể khẳng định rằng hoạt động lập pháp của Quốc hội để thực hiện chức năng lập pháp được khẳng định xuyên suốt và dần dần hoạt động này càng đi vào hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế cuộc sống. III. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN LẬP PHÁP Thứ nhất, quyền lập pháp của Quốc hội hoàn toàn mang tính tất yếu. Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất mà nhà nước sử dụng để quản lí xó hội, nhằm duy trỡ trật tự xó hội, bảo vệ quyền và lợi ớch của mọi người dân, trách nhiệm của nhà nước là phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật hữu hiệu, thể hiện được những giá trị công bằng, khách quan. Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do vậy, tất yếu quyền lập pháp phải được trao cho Quốc hội. Thứ hai, việc thực hiện quyền lập phỏp phải mang tớnh khỏch quan, khụng phụ thuộc vào ý chớ chủ quan của một cỏ nhõn, tổ chức nào mà phải xuất phỏt từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xó hội. Hơn nữa, những nội dung, chính sách cụ thể của các luật không được áp đặt từ ý chớ chủ quan của cơ quan lập pháp mà phải xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tỡm kiếm, phỏt hiện, nhận thức một cỏch biện chứng cỏc điều kiện xó hội cụ thể và nờu lờn thành luật. Thứ ba, quyền lập pháp mang tính chất quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước gồm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền lập pháp được biểu hiện cụ thể, rừ nột bởi kết quả là cỏc đạo luật và pháp lệnh được ban hành. Đây là lĩnh vực hoạt động đặc thù riêng của nhà nước, do vậy, các kết quả hoạt động này cũng mang tính quyền lực nhà nước và tính bắt buộc thi hành đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xó hội. Thứ tư, quyền lập pháp là độc lập trong chỉnh thể quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về duy nhẩt một chủ thể là nhân dân. Trong chỉnh thể thống nhất ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, quyền lập pháp là một nhánh quyền lực độc lập, tương ứng với hai nhánh quyền cũn lại, đồng thời nó là nhánh quyền lực cao nhất trong các nhánh quyền lực đó. Tính chất độc lập của quyền lập pháp xuất phát từ chính những hoạt động đặc thù của nó và từ chính nguồn gốc khách quan ra đời nó đó là sự phân chia quyền lực nhà nước. IV. Thực trạng hoạt động lập pháp của quốc Hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. 1.Thực trạng hoạt động lập pháp của Quốc Hội. Thực trạng công tác của Việt nam gắn với quá trình hình thành và phát triển của nhà nước Việt nam mới. Hoạt động lập pháp của Quốc hội nước ta trong hơn năm mươi năm qua đã có bước phát triển đáng kể; Quốc hội đã thông qua bốn bản hiến pháp, đánh dấu những cột mốc pháp lý quan trọng của lịch sử lập hiến nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam với hàng trăm luật và bộ luật tạo cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đặc biệt trong những năn gần đây Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn hoạt động này vì thế càng góp phần thực hiện vị trí chức năng của mình đầy đủ, chính xác hơn trên thực tế. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng vào năm 1986 và nhất là đến khi Hiến pháp mới năm 1992 ra đời đã có những biến đổi lớn trong công tác lập pháp của Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc tạo lập khuôn khổ và cơ chế pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới toàn hệ thống chính trị, kết quả là pháp luật đã bước đầu trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội; nguyên tắc pháp quyền được đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế. Sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới đã và đang làm phát sinh ngày càng nhiều quan hệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt hiện nay Việt nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới thì việc nội luật hoá các điều ước quốc tế là điều hết sức cấp thiết. Trước những yêu cầu đó, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - Quốc hội đã từng bước vươn lên, kế thừa hoạt động lập pháp của Quốc hội các khoá trước, hoạt động lập pháp của Quốc hội trong mấy nhiệm kỳ gần đây đã được nâng cao về chất một cách rõ nét nhất là từ khi Hiến pháp năm 1992 ra đời. Với Quốc hội khoá XI đã có những đổi mới đáng kể góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Quốc hội đã đạt những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực đặc biệt là hoạt động lập pháp đã có những chuyển biến mạnh. Đến tháng 10/2005, Quốc hội đã thông qua 47 bộ luật và nhiều Nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật trong đó có những đạo luật lớn, quan trọng đã được thực hiện trên thực tế như Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự,Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, đây là kết quả có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Cùng với nó là việc tổng kết kinh nghiệm lập pháp của Quốc hội nước ta mấy chục năm qua, những giá trị tinh hoa nhân loại về nhà nước pháp quyền, quyền công dân, quyền con người được lựa chọn kế thừa và trên cơ sở phù hợp với thực tiễn Việt nam để đưa vào các văn bản pháp luật khẳng định ở mức độ cao cả về tốc độ, chất lượng của văn bản pháp luật được ban hành, ngày càng đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của đời sống xã hội. Sau khi đổi mới, vai trò của Quốc hội càng được đề cao trong sinh hoạt của đất nước. Quốc hội thực hiện ngày càng có hiệu quả và hiệu lực những nhiệm vụ quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định. Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, Quốc hội đã rất quan tâm đến hoạt động lập pháp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ phục vụ các yêu cầu đổi mới đất nước, tạo hành lang pháp lý để thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, bảo đảm các quyền của công dân được thực hiện đầy đủ. Như vậy kế thừa hoạt động lập pháp của các khoá trước, hoạt động lập pháp của Quốc hội trong mấy nhiệm kỳ gần đây đặc biệt là từ sau Hiến pháp năm 1992 đã được đẩy mạnh và ngày càng được nâng cao rõ rệt, các văn bản được ban hành trong thời gian qua đã quy định khá bao quát và toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Về vấn đề này, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định “về hoạt động lập pháp ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội, ưu tiên các luật về kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách Bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hoá thông tin. Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn ở Việt nam, nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn thực hiện phải có văn bản hướng dẫn thi hành”. Quán triệt dường lối quan điểm của Đảng về phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội và bám sát các yêu cầu của cuộc sống đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trên thực tế trong thời gian qua Quốc hội đã ban hành các luật, đạo luật có 2. Một số phương hướng nhằm nâng cao hoạt động lập pháp của Quốc hội a. Đổi mới và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội . Trong hoạt động lập pháp việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội hiện nay được quán triệt theo hướng tiếp tục nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội để đảm bảo Quốc hội thực hiện tốt các chức năng của mình trong đó có chức năng lập pháp - chức năng qu
Luận văn liên quan