Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thiên tai, dịch bệnh gia súc, gia cầm, giá vật tư phân bón trong những năm qua tăng, thị trường nông sản có những năm không ổn định nhưng nhờ sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh giá trị sản xuất ngành nông nghiệp liên tục tăng trưởng. Giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 4,62%, thời kỳ 2006-2009 tăng bình quân 6,28% cao hơn trung bình của cả nước. Nhờ đó, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn tạo nền tảng cho việc đổi mới nền kinh tế nói chung.
Tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong những năm qua góp phần bảo đảm an ninh lương thực của địa phương. Sản lượng lương thực có hạt tăng trưởng mạnh trong những năm qua cho thấy vấn đề đột phá quan trọng trong tiến trình đổi mới ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ trên địa bàn tỉnh. Trong khi một số nước nghèo, đang phát triển có nguy cơ trước nạn thiếu đói lương thực thì sản lượng lương thực của tỉnh năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 sản lượng lương thực có hạt chỉ đạt 399 ngàn tấn thì đến năm 2009 đã đạt trên 985 ngàn tấn. Một tỉnh miền núi có sản lượng lương thực gần 1 triệu tấn có thể xem như là một thành tích tốt. Tăng bình quân sản lượng lương thực giai đoạn 2001-2005 là 13,3% và thời kỳ 2006-2009 là 7,2%. Đây là tỷ lệ tăng khá cao. Bình quân lương thực đầu người trong những năm gần đây tăng 7,27% (537 kg/người/năm). Giải quyết được vấn đề an ninh lương thực có ý nghĩa rất quan trọng, mở đường cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
Tăng trưởng của ngành nông nghiệp đã góp phần quan trọng thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến phát triển và tăng kim ngạch xuất khẩu. Những năm qua sản lượng ngô, sắn tăng đã cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến tinh bột sắn, thức ăn chăn nuôi. Sản lượng cà phê, cao su, mía, ong mật tăng đã góp phần quan trọng cho công nghiệp chế biến nông sản tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu thu về ngoại tệ cho tỉnh. Tăng trưởng ngành công nghiệp thời kỳ 2001-2005 đạt 21,93%, thời kỳ 2006-2009 tăng 18,37% tạo tiền đề quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải kể đến sự đóng góp nguyên liệu từ ngành nông nghiệp, cung cấp cho ngành chế biến liên tục ổn định và tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn trên 700 triệu USD trong đó ngành nông nghiệp đóng góp trên 70%.
7 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2352 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2006-2009, những thành công và thách thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH ĐẮKLẮK GIAI ĐOẠN 2006-2009, NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ THÁCH THỨC
TS. Trần Ngọc Thanh
Sở Nông nghiệp và PTNT ĐắkLắk
Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thiên tai, dịch bệnh gia súc, gia cầm, giá vật tư phân bón trong những năm qua tăng, thị trường nông sản có những năm không ổn định nhưng nhờ sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh giá trị sản xuất ngành nông nghiệp liên tục tăng trưởng. Giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 4,62%, thời kỳ 2006-2009 tăng bình quân 6,28% cao hơn trung bình của cả nước. Nhờ đó, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn tạo nền tảng cho việc đổi mới nền kinh tế nói chung.
Tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong những năm qua góp phần bảo đảm an ninh lương thực của địa phương. Sản lượng lương thực có hạt tăng trưởng mạnh trong những năm qua cho thấy vấn đề đột phá quan trọng trong tiến trình đổi mới ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ trên địa bàn tỉnh. Trong khi một số nước nghèo, đang phát triển có nguy cơ trước nạn thiếu đói lương thực thì sản lượng lương thực của tỉnh năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 sản lượng lương thực có hạt chỉ đạt 399 ngàn tấn thì đến năm 2009 đã đạt trên 985 ngàn tấn. Một tỉnh miền núi có sản lượng lương thực gần 1 triệu tấn có thể xem như là một thành tích tốt. Tăng bình quân sản lượng lương thực giai đoạn 2001-2005 là 13,3% và thời kỳ 2006-2009 là 7,2%. Đây là tỷ lệ tăng khá cao. Bình quân lương thực đầu người trong những năm gần đây tăng 7,27% (537 kg/người/năm). Giải quyết được vấn đề an ninh lương thực có ý nghĩa rất quan trọng, mở đường cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
Tăng trưởng của ngành nông nghiệp đã góp phần quan trọng thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến phát triển và tăng kim ngạch xuất khẩu. Những năm qua sản lượng ngô, sắn tăng đã cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến tinh bột sắn, thức ăn chăn nuôi. Sản lượng cà phê, cao su, mía, ong mật tăng đã góp phần quan trọng cho công nghiệp chế biến nông sản tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu thu về ngoại tệ cho tỉnh. Tăng trưởng ngành công nghiệp thời kỳ 2001-2005 đạt 21,93%, thời kỳ 2006-2009 tăng 18,37% tạo tiền đề quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải kể đến sự đóng góp nguyên liệu từ ngành nông nghiệp, cung cấp cho ngành chế biến liên tục ổn định và tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn trên 700 triệu USD trong đó ngành nông nghiệp đóng góp trên 70%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã góp phần làm tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, tạo công ăn việc làm và cải thiện tình hình nông thôn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và nổ lực của nông dân trong tỉnh, bộ mặt nông thôn tỉnh ta đã từng bước khởi sắc và thay đổi nhanh chóng, kinh tế xã hội nông thôn không ngừng phát triển. An ninh chính trị cơ bản ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Nhờ có tăng trưởng nông nghiệp, cơ cấu kinh tế, tỷ trọng lao động nông nghiệp ở nông thôn được chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ, ngành nghề nông thôn.
Kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản đáp ứng các điều kiện đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cộng đồng, các nhu cầu về sản xuất và sinh hoạt của cộng đồng dân cư nông thôn được đáp ứng. Bộ mặt nông thôn của tỉnh đã có những khởi sắc, các thị trấn, thị tứ được hình thành nhờ có hệ thống giao thông đến tận các xã, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt nông thôn phát triển, sóng phát thanh, truyền hình đến tận các buôn làng, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng tuy đạt được những thành tựu ban đầu nhưng nhìn chung tốc độ chuyển đổi còn chậm. Tỷ trọng GDP ngành nông, lâm thuỷ sản vẫn chiếm phần lớn đến năm 2009 còn 53,05%. Thời kỳ 2006-2009 bình quân giảm tương đối 3,5%. Để phấn đấu giảm tỷ trọng GDP ngành nông, lâm thuỷ sản xuống dưới 10% đến năm 2020 cần phải có giải pháp để tăng tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và ngành dịch vụ hơn nữa.
Trong nội bộ ngành nông, lâm thuỷ sản thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trên 98% và không có xu hướng giảm trong nhiều năm qua. Ngành lâm nghiệp tuy chiếm diện tích lớn, có nhiều tiềm năng nhưng giá trị sản xuất chỉ chiếm 0,82% năm 2008, ngành thuỷ sản chiếm tỷ trọng không đáng kể 0,58% điều này cho thấy cần phải có các giải pháp tích cực hơn để chuyển đổi cơ cấu trong ngành nông lâm thuỷ sản theo hướng tăng tỷ trọng ngành lâm nghiệp và thuỷ sản, giảm tương đối ngành nông nghiệp.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu còn mất cân đối, trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn, giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 84,93% (năm 2008). Ngành chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp có nhiều tiềm năng, giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhưng chỉ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn (giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm 12,55%, dịch vụ nông nghiệp 2,52%). Trong trồng trọt cây lương thực bao gồm cả lúa và ngô vẫn là chủ lực. Cây công nghiệp cà phê chiếm tỷ trọng lớn cho thấy sản xuất nông nghiệp còn độc canh phụ thuộc rất nhiều vào giá cả thị trường cà phê. Khi giá cà phê lên cao, người nông dân có thu nhập cao, những năm giá cà phê xuống thấp cuộc sống của đa số nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Cây ăn quả có nhiều tiềm năng nhưng chưa tìm kiếm được thị trường nên chưa phát triển. Chăn nuôi đại gia súc là một thế cạnh tranh của tỉnh nhưng chưa phát triển đúng tiếm năng chủ yếu vẫn là lợn, gia cầm.
Sản xuất nông nghiệp vẫn ở quy mô nhỏ, manh mún, phân tán. Quá trình phân chia tích tụ đất đai cùng với truyền thống canh tác lạc hậu lâu đời của các cộng đồng dẫn đến tình trạng đất canh tác của nông hộ rất nhỏ, đại đa số khoảng 0,5-0,7 ha/hộ lại phân bố manh mún nhiều thửa nên rất khó khăn trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ khí hoá. Thực trạng cơ khí hoá nông nghiệp của tỉnh còn rất thấp, khâu làm đất chỉ đạt 55%, gieo trồng đạt 4,06%, khâu chăm sóc đạt 17,74%, thu hoạch đạt 9,43%, chế biến đạt 37,96%. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy năng suất lao động tổng thể của các ngành nghề trong các hộ nông dân có diện tích đất dưới 0,25 ha thấp hơn các hộ có trên 02 ha là 2,5 lần. Thực trạng sở hữu đất đai trong nông nghiệp không thuần tuý ở quy mô sản xuất mà còn là sự khác biệt giữa hai hệ thống canh tác một bên là thủ công, một bên là cơ giới hoá và phương thức quản lý ở trình độ cao và trình độ thấp. Rất nhiều hộ nông dân khu vực đồng bào dân tộc vẫn còn áp dụng các phương thức canh tác quảng canh.
Tăng trưởng theo chiều rộng nhưng chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh nhiều mặt hàng còn thấp. Trong hơn tám năm qua ngành nông nghiệp đã có nhiều cố gắng số lượng sản phẩm ngày càng lớn, diện tích tăng, sản lượng tăng. Tuy nhiên năng suất cây trồng so với trung bình nhiều nước trên thế giới vẫn còn thấp. Một số cây trồng chính như lúa, cà phê đạt năng suất cao nhưng tăng theo chiều rộng, đầu tư quá nhiều vật tư (nước tưới, phân bón, thuốc hoá học, lao động) chưa có nhiều các sản phẩm xanh đạt tiêu chuẩn môi trường. Các sản phẩm nông lâm sản hàng hóa chưa xây dựng được nhiều thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, đạt tiêu chuẩn bền vững. Trong chăn nuôi đầu lợn tăng nhưng sản lượng tăng không đáng kể, tỷ lệ nạc còn thấp, bò lai cũng trong tình trạng tương tự.
Một yếu tố quan trọng làm tăng giá trị gia tăng của nông sản là phải gắn với chế biến. Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ tập trung ở một số sản phẩm như cà phê, điều, sắn, ngô, mía...nhưng là chế biến thô, tỷ lệ chế biến tinh còn thấp. Hàng hoá nông lâm sản tiêu thụ vẫn ở dạng nguyên liệu và bán thành phẩm ví dụ như cà phê, ngô, gỗ...công nghệ chế biến cũng còn thô sơ, giá trị gia tăng thấp.
Nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Có những năm nguyên liệu rất dồi dào nhưng nhà máy không tiêu thụ hết, có những lúc tranh mua, tranh bán dẫn đến giá thành lên cao. Quy mô vùng nguyên liệu cũng còn nhỏ vì vậy không thể tổ chức sản xuất lớn để giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm trong nông lâm sản vẫn là điểm yếu cơ bản chưa được khắc phục.
Tăng trưởng nhưng chưa bền vững. Các dịch vụ công để bảo vệ sản xuất như thú y, bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký chất lượng, chống gian lận thương mại, đăng ký thương hiệu...đã từng bước phát triển nhưng chậm và chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng diễn ra với tốc độ khá cũng làm thay đổi phương thức sử dụng tài nguyên rừng, đất, nước...Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nhanh trong khi chưa có công cụ, chính sách để quản lý làm cho quy hoạch bị phá vỡ thường xuyên, liên tục. Chưa có hệ thống quan trắc, thống kê đánh giá kịp thời để cảnh báo, dự báo những tác động của sản xuất đến môi trường. Nhiều vùng sinh thái không phù hợp với cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhưng nông dân phát triển tự phát sản xuất giá thành cao, lại ảnh hưởng đến tài nguyên, môi trường vì sử dụng không hợp lý, thiếu bền vững. Tài nguyên thiên nhiên đang bị tiếp tục khai thác bừa bãi, phá vỡ cân bằng sinh thái nhu tình hình tài nguyên rừng bị suy giảm trong những năm qua làm cho tình hình thời tiết, khí hậu ngày càng xấu đi, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nông dân và tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Xin kiến nghị một số giải pháp sau:
Giải quyết hài hoà mối quan hệ nông nghiệp-công nghiệp, nông thôn-đô thị
Trong xu thế hiện nay chúng ta đang tập trung đầu tư cho phát triển công nghiệp, dịch vụ nhưng phải giải quyết mối quan hệ hài hoà giữa nông nghiệp và công nghiệp. Xây dựng đô thị phải quan tâm đầu tư cho thị trấn thị tứ vùng nông thôn. Không thể tạm thời hy sinh nông nghiệp, nông thôn, môi trường để đưa công nghiệp, đô thị đi trước một bước như các nước công nghiệp đã tiến hành trước đây. Để phát triển bền vững, xoá đói giảm nghèo, ngăn chặn tình trạng chênh lệch quá lớn giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân tộc, dân cư, việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phải được quan tâm chú trọng đầu tư. Hiện nay đa số dân cư còn sống ở vùng nông thôn thì phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cách làm tốt nhất. Không thể có nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững trong khi nông thôn trì trệ, đời sống dân cư nông thôn không được cải thiện, thiếu việc làm nông thôn sẽ có nguy cơ gây bất ổn.
Một mặt chúng ta tiếp tục xây dựng thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị trung tâm cũng cần phải cân đối nguồn lực để xây dựng các thị xã, thị trấn cấp huyện và các trung tâm thị tứ tại các xã. Bằng các chính sách như ưu đãi về thuế, miễn giảm tiền thuê đất, tỉnh cần khuyến khích thu hút các nhà đầu tư về vùng nông thôn. Quy hoạch các cụm công nghiệp chế biến nông lâm sản gắn với nông thôn không tập trung sản xuất công nghiệp tại thành phố Buôn Ma Thuột, khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn, dịch vụ nông nghiệp để tận dụng nguồn lực tài nguyên, nguồn lực con người nông thôn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Kiến nghị Chính phủ, Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh chọn một hoặc hai huyện để làm thí điểm xây dựng định hướng cụ thể, bước đi để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bao gồm việc xây dựng đồng bộ cơ sở vật chất, kỹ thuật nông nghiệp, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn...từ đó rút kinh nghiệm, tổng kết để có chính sách đúng đắn áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh. Không thể có công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên lý luận chung mà phải có những mô hình cụ thể. Phát triển nông nghiệp nông thôn phải được coi là nền tảng trong tương lai. Trên cơ sở đó đề ra những chính sách, thể chế, ưu tiên đầu tư với cơ cấu phù hợp.
Tăng cường năng lực cho nông dân
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chỉ thành công khi người nông dân cũng như các doanh nghiệp được chủ động ra các quyết định theo những tín hiệu, thông suốt và đồng bộ của thị trường. Nền kinh tế thị trường sẽ động viên mọi thành phần kinh tế phát huy nội lực, phát triển sản xuất, tạo tích luỹ, từ đó chuyển thành đầu tư chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế.
Để thay đổi thói quen và nhận thức của nông dân hay nói khác hơn là tăng cường năng lực cho nông dân trong bối cảnh nền kinh tế thị trường kính đề nghị UBND tỉnh cho xây dựng đề án và có chương trình đào tạo nguồn nhân lực nông thôn, thông tin, tuyên truyền và Nhà nước cũng phải tạo điều kiện giúp đỡ, có chính sách hỗ trợ đề kinh tế thị trường có thể phát triển được ở nông thôn. Người nông dân phải biết xác định (về mặt giá trị sử dụng) sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai? Và (về mặt giá trị) phải tính hao phí bao nhiêu lao động (lao động quá khứ và lao động sống). Giữ vững ổn định chính trị xã hội để thu hút các nhà đầu tư, ưu tiên đầu tư các huyện nghèo, huyện biên giới còn nhiếu khó khăn. Trung ương cần tiếp tục giúp đỡ ĐắkLắk xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (giao thông vận tải, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc...) và hạ tầng xã hội (giáo dục, đào tạo, dạy nghề...). Quy hoạch là công cụ quan trọng để điều tiết và quản lý nhà nước có vai trò rất quan trọng vì vậy UBND tỉnh cần tiếp tục đầu tư, cấp kinh phí cho ngành nông nghiệp, nông thôn để thực hiện các quy hoạch trong những năm đến. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh là ngành tổng hợp bao gồm nhiều tiểu ngành vì vậy cần phải xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh ĐắkLắk đến năm 2020 trên cơ sở đó định hướng đến 2030, điều chỉnh các quy hoạch tiểu ngành cho phù hợp, tránh chồng lấn đồng thời phát huy lợi thế tổng hợp, bổ sung lẫn nhau.
Khoa học và công nghệ
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ sẽ đẩy nhanh sự phát triển của các ngành, làm cho phân công xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Kiến nghị HĐND, UBND tỉnh hàng năm cần đầu tư thích đáng kinh phí cho việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn tỉnh nhà. HĐND xem xét cho phép đầu tư 20% thu nhập của tỉnh cho công tác khoa học và công nghệ; trước hết cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ bảo quản và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Tỉnh ta có một số mặt hàng nông sản chủ yếu như cà phê, cao su, điều, ca cao, ngô, ong mật...tuy nhiên năng suất vẫn còn thấp so với nhiều nước, vì vậy cần tập trung mạnh cho việc nghiên cứu, ứng dụng giống mới, năng suất cao, các biện pháp thâm canh, xây dựng thương hiệu để tăng giá trị sản xuất trên ha, giảm giá thành sản phẩm tạo sức cạnh tranh cho hàng hoá. Có chính sách ưu tiên, hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp và nông dân nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại ứng dụng trong chế biến nông lâm thuỷ sản, sử dụng các loại giống tốt.
Đất đai
Đối với các ngành sản xuất khác, đất đai chỉ có ý nghĩa làm mặt bằng để tiến hành công việc. Đối với nông nghiệp, nông thôn đất đai trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu. Hơn nữa, đất đai còn là tư liệu sản xuất đặc biệt khác hẵn những tư liệu sản xuất thông thường khác, đất đai còn là yếu tố môi trường là tài sản quý giá của nhiều hộ gia đình nông dân nông thôn, đất đai còn có ý nghĩa văn hoá, tâm linh của nhiều cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên là động lực để phát triển sản xuất của các hộ gia đình nông thôn.
Để đất đai thật sự trở thành nguồn tài nguyên, nguồn lực của sản xuất ngoài việc hoàn thành và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất các cấp cho phù hợp cần đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kể cả nông, lâm nghiệp cho các chủ sử dụng. Sự an toàn của quyền sử dụng đất được bảo hộ bởi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là động lực, yếu tố rất quan trọng để các chủ sở hữu yên tâm đầu tư, sản xuất tạo ra của cải vật chất cho quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND tỉnh cũng cần nghiên cứu đề xuất Trung ương giải pháp để công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cộng đồng đã sử dụng đất đai lâu đời và đang được quản lý theo luật tục của địa phương. Việc làm này có tính nhạy cảm nhưng nếu giải quyết sẽ tạo động lực lớn cho sản xuất nông nghiệp nhất là các cộng đồng người bản địa.