Đất nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất lương 
thực chủ yếu là cây lúa nước mà một số hoa màu khác nhưng phân tán. bên 
cạnh đó, nề kinh tế của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa có đượcnề 
tảng để tạo đà phất triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã 
mở ra cho nền kinh tế nông nghiệp một hướng đi mới với một nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước và đặc biệt là 
nền kinh tế nông nghiệp đã được chú trọng hơn. Từ sau nghị quyết 10 của 
Bộ Chính trị và nhiều chính sách mới được ban hành đã giải quyết được 
những ràng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp và chỉ thị 100 
của Ban Bí thư Trung ương Đảng với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến 
nhóm người và người lao động. Đây được coi là chìa khoá vàng để mở ra 
thời kỳ mới của nông ngiệp. Bởi vì Đảng ta đã xác định để phát triển được 
nền kinh tế thì trước tiên là phải phát triển được nông nghiệp. Chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế nông nghiệp với xu hướng giảm tỷ trọng cây lượng thực, tăng 
dần tỷ trọng cây công nghiệp và thuỷ sản và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp 
trong nông thôn và tăng d ần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng v à dịch vụ. 
Phát triển nông ngiệp một cách toàn diện nhằm từ đó tích luỹ cho 
công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp 
Đề án: Chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế nông nghiệp ở thị 
trường Việt Nam 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
1 
MỞ ĐẦU 
Đất nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất lương 
thực chủ yếu là cây lúa nước mà một số hoa màu khác nhưng phân tán. bên 
cạnh đó, nề kinh tế của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa có đượcnề 
tảng để tạo đà phất triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã 
mở ra cho nền kinh tế nông nghiệp một hướng đi mới với một nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước và đặc biệt là 
nền kinh tế nông nghiệp đã được chú trọng hơn. Từ sau nghị quyết 10 của 
Bộ Chính trị và nhiều chính sách mới được ban hành đã giải quyết được 
những ràng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp và chỉ thị 100 
của Ban Bí thư Trung ương Đảng với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến 
nhóm người và người lao động. Đây được coi là chìa khoá vàng để mở ra 
thời kỳ mới của nông ngiệp. Bởi vì Đảng ta đã xác định để phát triển được 
nền kinh tế thì trước tiên là phải phát triển được nông nghiệp. Chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế nông nghiệp với xu hướng giảm tỷ trọng cây lượng thực, tăng 
dần tỷ trọng cây công nghiệp và thuỷ sản và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp 
trong nông thôn và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. 
Phát triển nông ngiệp một cách toàn diện nhằm từ đó tích luỹ cho 
công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế. 
Việc thực hiện những chiến lược đó phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả 
đổ mới cơ chế quản lý, các chính sach hồ tự phát triển và chuyển dịch cơ 
cấu trong nền kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 
thực hiện như thế nào, tập trung vào những gì, thực thi những ngành nào 
mũi nhọn và then chốt, xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp... là hàng 
loạt những vấn đề cần phải được tính đến. 
 Bài viết này được chia thành 3 phần: 
 Phần I. Những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngiệp 
 Phần II. Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt 
Nam từ trước năm 1985-1988 tới nay. 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
2 
 Phần III. Giải pháp cho xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông 
nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2005 
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU 
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP 
I. VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ 
QUỐC DÂN. 
 1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất phong phú. Nông dân sống ở khu vực 
nông nghiệp gắn liền với nông thôn, sản xuất gắn liền với thiên nhiên, với 
môi trường và gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với nước chưa phát triển, 
khoa học kỹ thuật còn lạc hậu. Đại bộ phận, xét một cách tổng thể, các nước 
đang phát triển và kém phát triển có trên 80% dân số và 70% lao động xã 
hội tập trung ở nông với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kỹ thuật canh tác 
lạc hậu, trình độ lao động thấp. Người nông ở đây, họ vừa là những người 
sản xuất vừa là những người tiêu thụ sản phẩm của chính bản thân họ làm 
ra. Bởi vậy, tính phối hợp liên ngành (cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản 
phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp từ khu vực nông nghiệp và thu nhập 
quốc dân chưa cao và bất ổn định. 
Bên cạnh đó nông nghiệp Việt Nam còn có đặc điểm nổi bật khác do 
những điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt. 
Nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới, đất nước trải dài theo hướng Bắc-
Nam, phần lớn địa hình là đồi núi, có ba mặt tiếp giáp với biển… chính vì 
vậy, có thảm thực vật phong phú, đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, 
nhiều loài vật có giá trị kinh tế cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa 
dạng và có thể đi vào chuyên canh nhiều loại cây, con. Hiện nay, nông 
nghiệp nước ta sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa nước nhưng phần tán, 
việc áp dụng các kỹ thuật cơ giới hoá, hiện đại hoá vào sản xuất nông 
nghiệp thiếu kinh nghiệm và còn nhiều bất cập. 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
3 
-Nước ta đất chật, dân số không ngừng tăng lên lên khả năng mở rộng 
quy mô sản xuất nông nghiệp hạn chế. 
-Việc chuyển nền nông nghiệp Việt Nam sang sản xuất hàng hoá gặp 
nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật, trình độ lao động, khả năng quản lý … 
Đây là những đặc điểm nổi bật cần phải khắc phục nhanh chóng tạo 
tiền đề cho nhiệm vụ công nghiệp hoá -hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 
nước ta theo hướng bền vững, tiến lên một nền nông nghiệp mà : 
-Đi vào sản xuất hàng hoá 
-Năng suất cây trồng và gia súc cao. 
-Năng suất lao động cao. 
-Sử dụng hệ thống thuỷ canh. 
Và khắc phục những hạn chế : 
-Sử dụng năng lượng lãng phí 
-Chất lượng nông sản kém. 
-Môi trường bị ô nhiễm. 
2. Vai trò, vị trí của sản xuất nông nghiệp. 
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc 
biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì các nước này đa số người dân 
sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho 
nhân dân, Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp 
nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. 
Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất 
khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất 
lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. 
Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế . Để 
đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế việc tăng dân số ở khu vực ở 
khu vực thành thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng 
nâng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra 
thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu nông nghiệp hoá đất 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
4 
nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp nguyên liệu cho 
công nghiệp chế biến. 
Khu vực công nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho 
phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp 
hoá. Theo Timer-1988, Morris và Adelma -1981 từ kinh nghiệm thực tế của 
thế kỷ XIX và nhất là thập kỷ gần đâycho thấy, phát triển nông nghiệp là 
một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công nghiệp hoá (do tích luỹ 
từ công nghiệp mang lại) hình thành và phát triển thị trường trong nước, giải 
quyết việc làm ở nông thôn trong thời gian đầu, hạn chế áp lực làm chậm 
quá trình công nghiệp hoá …) 
Theo Timmer-1988 ở giai đoạn bắt đầu phát triển nông nghiệp 
chiếm phần lớn sản phẩm trong nước, tích luỹ chủ yếu từ nông nghiệp, 
nguồn thu của Nhà nước chủ yếu do các loại thuế đánh vào nông nghiệp. 
+Giai đoạn nông nghiệp đóng góp củ yếu cho sự tăng trưởng một 
phần nguồn thu từ nông nghiệp được đầu tư lại hco nông nghiệp (chủ yếu 
cho nghiên cứu và cơ sở hạ tầng) sản lượng nông nghiệp tăng lên. 
+Giai đoạn lao động nông nghiệp bắt đầu giảm, nông nghiệp phải 
được liên kết về thị trường lao động và tín dụng liên kết kinh tế thành thị-
nông thôn, nông nghiệp ngày càng phụ thuộc vào thị trường. 
+Giai đoạn nông nghiệp dưới mức 20% của tổng lao động trong 
nước, nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp linh hoạt của Nhà 
nước. 
Để đạt được như vậy thì điều kiện đầu tiên quan trọng nhất là ta phải 
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất 
quan trọng của nền kinh tế quốc dân. 
II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VỚI PHÁT TRIỂN 
NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN. 
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với sự phát triển của 
nền kinh tế quốc dân. 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
5 
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất 
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát 
triển kinh tế -xã hội ở nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là 
tổng thể của kinh tế bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực 
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong 
những khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội nhất định. 
Sau khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nhiều chính sách mới được 
ban hành đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong 
nông nghiệp và nông thôn, tạo cho nông nghiệp đạt được những thành tựu 
to lớn góp phần từng bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản 
xuất hàng hoá. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và 
nông thôn nói chung đã và đang có sự khởi sắc, sản xuất phát triển đời sống 
nhân dân được cải thiện. Mặt khác, việc chuyển dịch cơ cấu ngành, theo 
vùng, lãnh thổ, theo các thành phần kinh tế, theo cơ cấu kỹ thuật - công nghệ 
hướng tới nền sản xuất hàng hoá và đạt được nhiều tiến bộ đángg kể. 
Thế nhưng ở trong phạm vi của từng vùng trong nước thì không hẳn 
thế. Do có sự phát triển không đều giữa các vùng trong nước, quá trình đó 
diễn ra ở các vùng không giống nhau: ở vùng kinh tế phát triển , quá trình đó 
diễn ra theo trình tự chung còn ở vùng kinh tế kém phát triển, quá trình đó 
có thể bắt đầu từ việc phá thế độc canh hoá chuyển sang đa canh lúa, màu 
phát triển chăn nuôi và bước tiếp theô là phát triển các ngành nghề tiều, thủ 
công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
nông nghiệp và nông thôn là: tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ 
trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngày càng 
tăng. 
Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông 
thôn còn phải có sự quan hệ rất nhiều tới các ngành khác như phát triển 
nông nghiệp hàng hoá phải chịu sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp và 
nông nghiệp không thể tự đi lên nếu không có sự tác động trực tiếp của một 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
6 
nền công nghiệp phát triển. Và được các ngành nghề mới trong nông 
nghiệp. 
Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu 
nông nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra. Từ 
lao động trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi, làm các 
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nó không chỉ phụ thuộc vào 
phục vụ cho cả nhu cầu phát triển nông nghiệp mà còn phục vụ cho cả nhu 
cầu phát triển công nghiệp, thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác. 
Từ thế kỷ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kỹ thuật công nghệ 
phát triển và đổi mới như vũ bão, tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ 
sản phẩm ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không 
thể tách rời với sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như 
không thể tách rời sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 
với cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước. 
Mặt khác, sự phân hoá giàu nghèo ở nông nghiệp và nông thôn không 
thể tránh khỏi, nó diễn ra theo hướng : khi sản xuất hàng hoá kém phát triển 
thì khoảng cách đó tương đối doãng ra, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở 
trình độ cao thì khoảng cách đó thu hẹp laih và có thể trở lại khoảng cách 
ban đầu (nhưng ở trình độ cao hơn). Điều đó chứng tỏ sự phân hoá giàu 
nghèo vừa là kết quả, vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế. 
Thêm vào đó, ở đâu có trình độ dân trí thấp thì ở đó việc xác lạp và 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đương nhiên là gặp nhiều khó khăn và khó tránh 
khỏi sai lầm . Điều này cũng chứng tỏ rằng với với trình độ dân trí hay mặt 
bằng trong giáo dục có chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. 
2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 
a. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đài 
Loan. 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
7 
Ta biết rằng Đài Loan là một lãnh thổ nhỏ với 2/3 là đồi núi, đất canh 
tác chỉ có gần 900.000 ha, khí hậu á nhiệt đối và nhiệt đới, bởi vậy cơ cấu 
nông nghiệp rất đa dạng, phong phú như trồng trọt có lúa nước, lúa mì, 
khoai lâng, khoai tây, lạc, chuối…. Về chăn nuôi có lợn, gàm vịt , trâu, bò… 
Ngư nghiệp có điều kiện thuận lợi để phát triển, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ 
hải sản, có những sản phẩm xuất khẩu có giá trị như tôm, cá… 
Tuy vậy, cho đến giữa thế kỷ xét xử, nông nghiệp Đài Loan vẫn ở 
tình trạng lạc hậu, sản xuất tiểu nông tự cấp, tự túc. Từ đầu những năm 1950 
đến nay cơ cấu nông nghiệp Đài Loan, do có sự tác động của công nghiệp 
hoá, đã có một bước phát triển mạnh mẽ, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển 
dịch theo hướng sản xuất nông sản hàng hoá, hướng về về xuất khẩu, và đã 
đạt được những thành tựu to lớn trong thời kỳ công nghiệp hoá. Quá trình đó 
của Đài Loan được chia làm 3 thời kỳ. 
*Thời kỳ thứ nhất: 
Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh 
chuẩn bị công nghiệp hoá (1949-1953). 
Trong thời kỳ này, Đài Loan bắt đầu thực hiện cải cách ruộng đất do 
chính quyền Quốc Dân Đảng thực hiện trong 4 năm (1949-1953) với nội 
dung: giảm tô từ 50-60% xuống 37,5% (1949), chính quyền đem 130.000 ha 
ruộng công bán cho 177.000 hộ nông dân thiếu ruộng (1951), ban chấp hành 
"luật người cày ruộng: (1953), trưng mua số ruộng đất quá hạn mức của địa 
chủ bán cho nông dân thiếu ruộng. 
Điều trên đã tạo điều kiện chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp 
phong kiến tiểu nông sang nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá Tư 
bản chủ nghĩa, dọn đường cho công nghiệp hoá. Kết quả, sản xuất nông 
nghiệp 1952 đạt 129,7% so với năm 1940-19443 (thời kỳ kinh tế thịnh 
vượng trước đây). Cơ cấu nông nghiệp thời kỳ này vẫn là cơ cấu truyền 
thông. Năm 1953, trong cơ cấu nông nghiệp, giá trị sản lượng trồng trọt 
chiếm 71,9%, chăn nuôi chiếm 15,6%, thuỷ sản chiếm 7,4%, lâm nghiệp 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
8 
chiếm 5,1%. Trong ngành trồng trọt: lua chiếm 58,7 %, mì màu 13,3%, cây 
công nghiệp 19,7%, rau 4,8, quả 3,5%. Trong ngành nông sản xuất khẩu 
năm 1952 đạt 114 triệu USD chiếm 95,5% kim ngạch xuất khẩu. Nó đánh 
dấu bước ngoặc đầu tiên của sản xuất nông nghiệp chuyển từ hướng nội 
thuần tuý sang hướng ngoại. 
* Thời kỳ thứ hai 
Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển nông nghiệp để nuôi 
dưỡng công nghiệp (1953-1968): Đây là thời kỳ đầu của quá trình công 
nghiệp hoá ở Đài Loan nó được thực hiện trong 4 kế hoạch phát triển kinh tế 
quốc gia (NEDP) 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
9 
Biểu 1: Cơ cấu nông nghiệp thời kỳ 1953-1968 
Năm Giá trị sản lượng 
nông nghiệp 
Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp 
1953 10.390 (1) 71,9% 15,6% 7,4% 5,1% 
1968 48.883 60,1% 23,0% 10,6% 6,3% 
(1) Triệu đồng Đài Loan. 
Với chức năng phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp 
trong thời gian 1953-1968, nông nghiệp Đài Loan tập trung vào các mục 
tiêu: 
-Nâng cao nông nghiệp bằng đa dạng hoá sản phẩm và cạnh tranh để 
đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho nhân dân. 
-Mở rộng xuất khẩu nông sản phẩm phục vụ công nghiệp hoá . 
-Cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp để phát triển 
công nghiệp hoá. 
Kết quả: sản phẩm trồng trọt chính (lúa, mía, rau quả) tăng từ 60-
400%, năng suất cấy trồng từ 50-200%, sản lượng thuỷ sản tăng 400%, lâm 
sản tăng 50%-120%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 266,590 
triệu USD, tăng 220%. Điểm chủ ý ở đây là cơ cấu nông nghiệp trong thời 
kỳ 1953-1968 đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. 
Giá trị sản lượng nông, lâm ngư nghiệp năm 1968 tăng 5 lần so với 1953, cơ 
cấu giá trị chăn nuôi tăng từ 15,6% lên 23%, ngư nghiệp từ 7,4%-10,6%, 
lâm nghiệp từ 5,1%-6,3%. 
* Thời kỳ thứ ba 
Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển công nghiệp để hỗ trợ 
nông nghiệp (1961 đến nay). Một trong những nội dung chủ yếu trong thời 
kỳ này là tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu 
và khả năng của công nghiệp hoá. 
Số trang trại gia đình bắt đầu giảm, lao động nông nghiệp giảm từ 1,6 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
10 
triệu (1969) xuống 1,09 triệu (1991). Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong 
tổng số lao động xã hội giảm từ 38,9% (1969) xuống 12,9% (1991). 
Diện tích canh tác giảm 914 ha (1969) xuống 883540 ha (1991). Giá 
trị sản lượng nông nghiệp tăng 47731 triệu Đài Loan (1969) lênhà nước 
234185 triệu (1981). Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng 297 triệu USD 
(1969) lên 10,042 tỷ USD (1991). 
Biểu 2: cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp (1968-1981) 
Tỷ trọng giá trị sản phẩm (%) Năm Giá trị Sl (1) 
nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp 
1968 48833 60,1 23 9,5 5,6 
1981 234185 47,1 29,5 21,4 2,0 
(1) triệu đồng Đài Loan 
Kế hoạch của Đài Loan từ nay đến sau năm 2000 là tiếp tục chuyển 
dịch nền kinh tế nông nghiệp theo phương hướng chọn được cơ cấu nông 
nghiệp hợp lý trong điều kiện công nghiệp phát triển đạt trình độ cao, đất đai 
và lao động đất ở trong nước tập trung và sản xuất. Kế hoạch của Đài Loan 
từ nay đến sau năm 2000 là tiếp tục chuyển dịch chuyển nền kinh tế nông 
nghiệp theo hướng chọn được cơ cấu nông nghiệp hợp lý trong điều kiện 
công nghiệp phát triển đạt trình độ cao, đất đai và lao động đất ở trong nước 
tậ trung vào sản xuất các sản phẩm cần ít đất đai, lao động, đem lại giá trị 
kinh tế và lợi nhuận cao và tìm cách xuất khẩu vốn công nghệ , chuyên gia 
nông nghiệp ra các nước ngoài, có đất đai và lao động rẻ hơn, để sản xuất 
nông sản đưa về nước và đem xuất khẩu. 
Kết luận: 
+Trong thời gian từ 1949-1953 để mở đường cho công nghiệp hoá 
Đài Loan đã thực hiện cải cách ruộng đất, chuyển phương thức sở hữu và sử 
dụng đất phong kiến sang phương thức sử dụng ruộng đất tư bản chủ nghĩa. 
+Đài Loan đã chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ hướng nội phục vụ 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
11 
nhu cầu nhu cầu trong nước sang hướng ngoại phục vụ nhu cầu xuất khẩu 
nông sản. 
+Đã chuyển dịch cơ cấu nông lâm ngư nghiệp cho phù hợp từng thời 
kỳ công nghiệp hoá theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi thuỷ sản, 
rau quả và giảm tỷ trọng lương thực, lâm sản. 
 +Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở 
thành thị và nông thôn, tạo ra thu nhập cao hơn, đáp ứng nhu cầu cho công 
nghiệp. 
+Chuyển dịch lao động động thủ công trong nông thôn sang lao động 
cơ khí trên lao động chuồng trại và trong xí nghiệp chế biến nông sản. 
+ Khi công nghiệp phát triển trình độ lao động cao, sẩn xuất nông 
nghiệp có xu thế giảm sản xuất mọt số nông sản và thay thế bằng nông sản 
nhâp khẩu có lợi cao, chuyển sản xuất nông nghiệp từ nội địa ra nước ngoài, 
nhằm vào đất nước có đất đai và lao động rẻ để sản xuất và xuất khẩu nông 
sẩn từ nước ngoài có lợi hơn. 
b. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của 
Indonesia. 
Với hơn 200 triệu dân và 70% dân cư sống ở nông thôn, ngành nông 
nghiệp Indonesia có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. 
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nnn1 của Indonesia quan tâm sâu sắc, 
trong đó chính sách phát triển nông nghiệp tập trung sản xuất lương thực, 
thực phẩm vì mục tiêu an toàn lương thực, thực phẩm và đề cao vai trò khu 
vực nông thôn. 
Để thực hiện việc dễ dàng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông 
nghiệp chính phủ nước này đã tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng như 
đường sá, công trình thuỷ lợi, nghiên cứu ứng dụng các loại giống cao sản… 
đều được trợ giá ở mức độ khác nhau. Đây chính là điều kiện nhằm khuyến 
khích phát triển cho nền kinh tế nông nghiệp. 
KÕ ho¹ch chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng th«n 
12 
Cơ cấu và diện tích cây trồng liên tục được mở rộng, chú trọng phát 
triển những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu ở các trang trại nhà nước 
và tư nhân. Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia thực hiện khá tốt chính 
sách phát triển kinh tế trang trại. Nhờ đó, Indonesia trở thành nước xuất 
khẩu ca cao, cà phê, chè hàng đầu thế giới. Chính phủ nước này luôn cố 
gắng duy trì sự cần bằng tương đối giữa nông nghiệp và những ngành công 
nghiệp, dịch vụ.. đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ 
trợ giải quyết các yếu tố đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. 
3. Các n