Đề tài Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 – 2015

Việt Nam đang trong những năm tăng tốc của quá trình Công nghiệp hóa Hiện đại hóa để đạt mục tiêu đến năm 2020: về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế của nước ta hiện vẫn là Nông nghiệp- Công nghiệp – Dịch vụ. Để đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển thì nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Mà cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công nhất thiết phải có sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp. Do đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng hướng là một vấn đề quan trọng và cần được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay. Đồng bằng sông Hồng là khu vực đông dân nhất hiện nay của cả nước. Khu vực này có mật độ dân số cao với sức ép về việc làm gay gắt. Vùng Đồng bằng sông Hồng có khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt là thủ đô Hà Nội- trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội của cả nước. Do đó việc chuyển dịch cơ cấu lao động của Đồng bằng sông Hồng là hết sức quan trọng, có vai trò như đầu tàu cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động của cả nước.Vì những lý do trên em đã chọn lựa đề tài: “ Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 – 2015”

doc88 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3696 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam đang trong những năm tăng tốc của quá trình Công nghiệp hóa Hiện đại hóa để đạt mục tiêu đến năm 2020: về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế của nước ta hiện vẫn là Nông nghiệp- Công nghiệp – Dịch vụ. Để đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển thì nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Mà cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công nhất thiết phải có sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp. Do đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng hướng là một vấn đề quan trọng và cần được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay. Đồng bằng sông Hồng là khu vực đông dân nhất hiện nay của cả nước. Khu vực này có mật độ dân số cao với sức ép về việc làm gay gắt. Vùng Đồng bằng sông Hồng có khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt là thủ đô Hà Nội- trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội của cả nước. Do đó việc chuyển dịch cơ cấu lao động của Đồng bằng sông Hồng là hết sức quan trọng, có vai trò như đầu tàu cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động của cả nước.Vì những lý do trên em đã chọn lựa đề tài: “ Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 – 2015” 2. Mục tiêu đạt được của đề tài: Thông qua đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng sông Hồng, phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua để đề ra được một số biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo đúng hướng, đảm bảo sự phát triển bền vững. 3. Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề này có áp dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và lịch sử để phân tích và nhìn nhận vấn đề. Ngoài ra, phương pháp phân tích chuỗi số liệu theo thời gian cũng được sử dụng để thấy được xu hướng và tốc độ của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Trong chuyên đề này tập trung nghiên cứu vào sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong khu vực Đồng bằng sông Hồng trong khoảng thời kỳ 2000 -2008. Từ đó đưa ra một số định hướng cho việc chuyển dịch nhanh và hiệu quả cho thời kỳ 2011-2015. 4. Chuyên đề gồm có 3 phần là CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÙNG ĐBSH THỜI GIAN QUA. CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÙNG ĐBSH THỜI KỲ 2011 – 2015. Do thời gian nghiên cứu còn ngắn và hiểu biết của bản thân còn thiếu sót nên bài làm của em không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được sự ủng hộ của các thầy cô và bạn bè cho bài làm của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lê Huy Đức cũng như các anh chị làm việc tại Vụ Lao động – Văn hóa – Xã hội (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư)đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG 1.1 Một số khái niệm chung. 1.1.1 Lao động Lao động là hoạt động có mục đích của con người. Lao động là hành động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất trong tự nhiên, biến đổi những vật chất đó, làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của mình. Định nghĩa về lao động đã đề cập đến 2 khía cạnh chủ yếu: thứ nhất xem lao động là hoạt động, là phương thức tồn tại của con người; thứ hai, xem lao động là chính bản thân con người, là sự nỗ lực vật chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để thỏa mãn những yêu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động là hoạt động xã hội, người ta phân biệt 5 yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động: đối tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động và chủ thể lao động. Trong đó chủ thể lao động là con người với tất cả những đặc điểm tâm sinh lý xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao động đòi hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức kỹ năng kỹ xảo nhất định. Trên cơ sở đó, lao động được quan niệm như là chính bản thân con người với tất cả sự nỗ lực vật chất tinh thần của nó, thông qua hoạt động lao động của mình, sử dụng các công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích nhất định. 1.1.2 Lực lượng lao động Dân số của một quốc gia bao gồm dân số trong độ tuổi lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động. Theo Luật lao động Việt Nam thì tuổi lao động là độ tuổi từ 15 đến hết 60 (đối với nam) và 55 (đối với nữ). Dân số trong độ tuổi lao động lại được chia làm hai bộ phận là dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế là những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm, hoặc có nhu cầu và nỗ lực tìm kiếm việc làm. Dân số không hoạt động bao gồm những người còn lại trong độ tuổi lao động mà không thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế. Nhóm dân số này bao gồm : những người không có khả năng làm việc do ốm đau, tàn tật, mất sức kéo dài; những người nội trợ cho gia đình và không được trả công; học sinh, sinh viên trong độ tuổi lao động; và những người không hoạt động kinh tế vì những lí do khác. Dân số hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương có thể bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao động, song phần lớn vẫn là những người trong độ tuổi lao động. Do đó, đối tượng nghiên cứu chính của những nhà kế hoạch nghiên cứu về lao động việc làm vẫn là bộ phận dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động. Đó chính là lực lượng lao động. Như vậy, LLLĐ (Lực lượng lao động) của một quốc gia hay một địa phương là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong muốn lao động, đang có việc làm hoặc đang tìm việc làm. LLLĐ bao gồm những người có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi là những người thất nghiệp). 1.1.3 Cơ cấu lực lượng lao động Cơ cấu lao động có thể hiểu là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện tỷ lệ của từng bộ phận lao động nào đó chiếm trong tổng số, hoặc thể hiện sự so sánh của bộ phận lao động này so với bộ phận lao động khác. Cơ cấu lao động thường được dùng phổ biến là: Cơ cấu lao động phân theo thành thị, nông thôn; Cơ cấu lao động chia theo giới tính, độ tuổi; Cơ cấu lao động chia theo vùng kinh tế; Cơ cấu lao động chia theo ngành kinh tế; Cơ cấu lao động chia theo trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật; Cơ cấu lao động chia theo trình độ có việc làm, thất nghiệp ở thành thị; Cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế. Xét dưới góc độ phân công sản xuất ta có cơ cấu lao động theo ngành. Theo đó, cơ cấu lực lượng lao động theo ngành kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng lao động trong từng ngành kinh tế với tống số lao động của một địa phương, vùng lãnh thổ hoặc quốc gia. Các quan hệ tỷ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Cơ cấu lực lượng lao động theo ngành bao gồm 3 ngành chính là Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Ngoài ra còn có thể phân chia thành 19 tiểu ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia. 1.1.4 Chuyển dịch cơ cấu lao động Trước hết, hiểu theo nghĩa rộng chuyển dịch cơ cấu lao động là việc chuyển cơ cấu lao động từ trạng thái này sang trạng thái khác, mà trạng thái ấy được quyết định bởi các bộ phận hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận ấy. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp với mục tiêu kinh tế- xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển. Cơ cấu mới hình thành đến một lúc nào đó cũng trở nên lỗi thời lạc hậu và lại cần được thay thế bằng một cơ cấu mới. Quá trình thay thế đó được lặp đi lặp lại không ngừng theo thời gian. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chính là sự tăng giảm của lao động trong từng ngành trong một không gian và thời gian nào đó. Lực lượng lao động hàng năm tăng hay giảm là do sự cân bằng giữa sự bổ sung của lực lượng lao động trẻ mới gia nhập và sự sụt giảm lao động do về hưu, chết hay nguyên nhân khác. Sự tăng giảm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động của từng ngành. Tuy nhiên, sự thay đổi cơ cấu lao động không đơn giản như vậy. Sự dịch chuyển ở đây phải được hiểu là có một bộ phận lao động trong ngành này sẽ rời bỏ ngành và gia nhập vào lực lượng lao động của ngành khác. Điều này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ lệ tương quan giữa lao động các ngành với nhau. Ngoài ra, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ làm thay đổi số lượng lao động mà còn làm thay đổi cả chất lượng lao động, vì sự chuyển dịch lao động thường đi kèm với đào tạo mới và đào tạo lại lao động. 1.1.5 Cơ cấu kinh tế Trước hết, cơ cấu ngành kinh tế hiểu theo một nghĩa chung nhất chính là một tổng thể các ngành trong nền kinh tế quốc dân được hợp thành theo một quan hệ tỉ lệ về lượng, thể hiện mối quan hệ giữa các ngành và trình độ phát triển của nền kinh tế. Dưới các giác độ khác nhau, cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu đối ngoại, cơ cấu tích lũy. Dĩ nhiên, cơ cấu kinh tế theo ngành thì sẽ có mối quan hệ mật thiết với cơ cấu lao động theo ngành. 1.1.6 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cũng giống như chuyển dịch cơ cấu lao động đã đề cập ở trên, ta có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác, mà trạng thái ấy được quyết định bởi các bộ phận hợp thành và kiểu kết cấu. Mỗi trạng thái được thể hiện trước hết qua tỷ trọng của mỗi bộ phận cấu thành nên hệ thống, rồi thể hiện qua tính vững chắc của hệ thống và chất lượng phát triển của hệ thống kinh tế. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự phát triển không đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có tốc độ thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có cùng một tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành. 1.1.7 Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Cái này vừa là tiền đề cho cái kia, lại vừa là kết quả có được từ cái kia. Trước hết, cơ cấu lao động phải được chuyển dịch tuỳ theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, phục vụ và đáp ứng cho chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đóng vai trò như đầu tàu, dẫn dắt chuyển dịch cơ cấu lao động. Các chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ quyết định ngành nào tăng về tỷ trọng đóng góp trong GDP và tỷ trọng ngành nào giảm. Như một kết quả tất yếu, một ngành phát triển thì sẽ kéo theo nhu cầu về lao động của ngành đó sẽ tăng lên. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một định hướng cho chuyển dịch cơ cấu lao động. Mặt khác, khi cơ cấu lao động được chuyển dịch thuận lợi, lại tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh chóng và đòi hỏi phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Lao động, hay cụ thể hơn là nguồn nhân lực, là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Do đó, chuyển dịch cơ cấu lao động là điều kiện tiên quyết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công. Bởi thế nên khi xem xét quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của một vùng, một địa phương, nhất thiết phải đặt nó trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế như một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả chuyển dịch cơ cấu lao động. 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động 1.2.1 Các nhân tố khách quan 1.2.1.1 Sự phát triển của khoa học và công nghệ Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã được coi là một nhân tố tham gia tích cực vào quá trình sản xuất. Đối với chuyển dịch cơ cấu lao động, khoa học công nghệ cũng có những tác động theo hướng sau: Trước hết, sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ dẫn đến sự ra đời của các ngành mới. Theo đó cầu về lao động trong những ngành này cũng xuất hiện và gia tăng nhanh chóng. Mặt khác, sự phát triển khoa học công nghệ cũng tất yếu dẫn đến tăng nhu cầu về lao động có trình độ và đào thải một số lượng người lao động không có trình độ cao. Với sự trợ giúp của máy móc hiện đại, các dây chuyền sản xuất hàng loạt, người ta có xu hướng tuyển các lao động có tay nghề kỹ thuật cao. Đó là một yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng gia tăng lao động kỹ thuật. 1.2.1.2 Sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trường Kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã xác định con đường mà chúng ta hướng tới là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những quan hệ kinh tế được điều tiết bởi quan hệ cung – cầu, và lao động cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Thị trường lao động là nơi diễn ra các hoạt động mua bán sức lao động, là nơi giá hàng hóa sức lao động được hình thành. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phát triển sẽ dẫn đến những ngành còn phù hợp , được thị trường chấp nhận sẽ tồn tại đồng thời các ngành nghề đã lỗi thời, lạc hậu sẽ bị đào thải. Theo đó, lao động trong các ngành này cũng sẽ dịch chuyển sang các ngành nghề khác. 1.2.1.3 Xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới Mở cửa và hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu hiện nay, cơ cấu kinh tế thay đổi tích cực theo hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ lệ giá trị kim ngạch xuất khẩu so với GDP ngày càng tăng. Điều đó có nghĩa hệ số mở cửa ngày càng lớn. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy thương mại phát triển. Nhiều sản phẩm hàng hóa có điều kiện thâm nhập thị trường và xác định được vị thế trên thị trường thế giới, biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh. Chính việc tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường thế giới, phát huy được lợi thế so sánh và nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã tạo thu nhập cho người lao động, đồng thời có điều kiện đầu tư trở lại để hạ giá thành, duy trì và phát huy khả năng cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế. Việc phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động cả tham gia trực tiếp và gián tiếp vào các khâu, các công đoạn trong chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu, qua đó làm thay đổi cơ cấu lao động . 1.2.2 Các nhân tố chủ quan 1.2.2.1 Các chính sách của Nhà nước. Chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tổng thể nền kinh tế nói chung và đối với sự chuyển dịch cơ cấu lao động nói riêng. Có rất nhiều chính sách của Nhà nước có liên quan và có ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động như: chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư trực tiếp cho các ngành, chính sách đào tạo nguồn nhân lực và chính sách di dân… Ngoài ra, các chính sách, chủ trương của Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi trong chuyển dịch cơ cấu lao động. 1.2.2.2 Quy mô và số lượng cơ sở đào tạo nghề. Nhân tố này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng của đội ngũ lao động thuộc mọi ngành nghề. Các cơ sở đào tạo và dạy nghề là đầu mối quan trọng cung cấp nguồn cung lao động cho mọi ngành nghề. Đây cũng là nơi mà cung và cầu lao động có sự gặp gỡ ban đầu. Một mặt, với sự yêu cầu, đòi hỏi của thị trường tất sẽ dẫn đến lượng cầu đào tạo một ngành nghề nào đó tăng lên. Mặt khác, lượng lao động đã qua đào tạo quay trở lại là một nguồn cung mới cho thị trường lao động. Do đó, quy mô và số lượng cơ sở đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của lực lượng lao động thuộc mọi ngành nghề. 1.2.2.3 Định hướng nghề nghiệp của người lao động. Nhân tố này tác động đến lựa chọn nghề nghiệp của người lao động. Nó chịu sự chi phối của hai nhân tố trên. Xã hội với nòng cốt là gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp cho giới trẻ. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các em học sinh đã phần nào được định hướng nghề nghiệp tương lai, thông qua sở thích, sự hướng dẫn, khuyên bảo của thầy cô và gia đình. Đến khi bước vào các trường đào tạo và dạy nghề, các em mới được cung cấp các kiến thức và kỹ năng cần thiết, để có thể trở thành những người lao động chính phục vụ cho gia đình và đất nước. Bên cạnh đó, các chính sách của Nhà nước về tiền lương, chế độ bảo hiểm thất nghiệp… cũng tác động không nhỏ tới mong muốn và nhu cầu làm việc của người lao động. 1.3 Các chỉ tiêu đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động 1.3.1 Về tốc độ chuyển dịch Quy mô và tốc độ gia tăng lao động trong các ngành: chỉ tiêu về quy mô lao động cho biết số lượng lao động trong các ngành của một địa phương, vùng hay cả nước tại từng thời điểm cụ thể. Thông qua đây có thể xác định được tốc độ gia tăng qua từng năm. Từ hai chỉ tiêu này có thể thấy được sự biến đổi số lượng và tỷ trọng lao động của các ngành thay đổi như thế nào qua từng thời kỳ. Ngoài ra, cũng có thể áp dụng phương pháp vector để đánh giá trình độ chuyển dịch cơ cấu lao động. Để lượng hóa mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa hai thời điểm và ta sử dụng công thức công thức sau: Cos φ= Trong đó: là tỷ trọng ngành i tại thời điểm t. Φ được coi là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S() và S(). Khi đó, Cos φ càng lớn thì các cơ cấu càng gần nhau, cho thấy một sự chuyển dịch chưa nhanh và hiệu quả. Ngược lại, nếu Cos φ càng nhỏ thì các cơ cấu càng xa nhau, cho thấy sự chuyển dịch đã nhanh và hiệu quả. Để đánh giá một cách trực giác sự chuyển dịch có thể sử dụng tỷ số để phản ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu. 1.3.2 Về tính phù hợp - Cơ cấu lao động theo ngành: chỉ tiêu này cho biết số lượng lao động của từng ngành chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số lao động toàn địa phương, vùng hay cả nước tại một thời điểm cụ thể. - Cơ cấu kinh tế theo ngành(theo GDP): chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đóng góp của từng ngành trong GDP của địa phương, vùng hay cả nước trong một khoảng thời gian cụ thể. Qua hai chỉ tiêu trên có thể đánh giá được sự phù hợp của chuyển dịch cơ cấu lao động so với cơ cấu kinh tế. 1.3.3 Về tính hiệu quả Các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là các chỉ tiêu về năng suất, tăng thu nhập và cải thiện mức sống của dân cư, tình hình giải quyết vấn đề về môi trường…như là: - Năng suất lao động theo ngành: chỉ tiêu này cho biết giá trị sản xuất do mỗi người lao động tạo ra trong một ngành nhất định. Nó cho ta biết hiệu quả hoạt động của ngành đó. Nếu cơ cấu lao động được chuyển dịch theo đúng hướng thì năng suất lao động sẽ tăng. - GDP/lao động: cho thấy sự đóng góp của một lao động vào trong GDP. Một sự chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý tất yếu sẽ dẫn đến sự cải thiện đời sống của người lao động, thể hiện gián tiếp qua sự gia tăng của GDP/lao động. -GDP/người: một lao động ngoài việc nuôi sống bản thân còn phải nuôi sống cả gia đình mình ( cha mẹ, con cái, vợ chồng…). Do đó, hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu lao động không thể chỉ xét đến thu nhập của lao động đó mà còn phải quan tâm đến thu nhập đầu người có được cải thiện hay không. 1.4 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động Trước hết, chuyển dịch cơ cấu lao động góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Như đã trình bày ở trên, cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng gia tăng lao động có tay nghề kỹ thuật cao sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu lao động để giảm sức ép về việc làm, giảm sức ép về dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Dân số gia tăng nhanh sẽ gây sức ép lớn về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất là việc làm. Tình trạng b
Luận văn liên quan