Đề tài Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Và sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Với chủ trương tăng cường hợp tác, làm bạn với tất cả các nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, vì vậy Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tham gia vào các tổ chức này có nghĩa Việt Nam phải thực hiện hàng loạt các cam kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan, điều này đem lại không ít khó khăn cho Việt Nam khi nền kinh tế còn đang non yếu, cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn kém. Để không bị tụt hậu chúng ta phải chọn con đường hội nhập. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, không phải Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế bằng mọi giá. Tham gia nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa với việc các quốc gia phải tính toán, cân nhắc mọi chính sách trên cơ sở lợi ích tối đa. Điều đó càng có ý nghĩa với nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Vì vậy, để công ty nhà nước (CTNN) thực hiện được vai trò “chủ lực” trong hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải xây dựng một lộ trình chuyển đổi cho các CTNN. Có rất nhiều hình thức mà CTNN có thể chuyển đổi sang như: công ty cổ phần, công ty TNHH v.v. Trong đó, Nhà nước ta rất chú trọng việc chuyển đổi từ CTNN sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (CTTNHH một thành viên).

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Và sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Với chủ trương tăng cường hợp tác, làm bạn với tất cả các nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, vì vậy Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tham gia vào các tổ chức này có nghĩa Việt Nam phải thực hiện hàng loạt các cam kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan, điều này đem lại không ít khó khăn cho Việt Nam khi nền kinh tế còn đang non yếu, cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn kém. Để không bị tụt hậu chúng ta phải chọn con đường hội nhập. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, không phải Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế bằng mọi giá. Tham gia nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa với việc các quốc gia phải tính toán, cân nhắc mọi chính sách trên cơ sở lợi ích tối đa. Điều đó càng có ý nghĩa với nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Vì vậy, để công ty nhà nước (CTNN) thực hiện được vai trò “chủ lực” trong hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải xây dựng một lộ trình chuyển đổi cho các CTNN. Có rất nhiều hình thức mà CTNN có thể chuyển đổi sang như: công ty cổ phần, công ty TNHH v.v.. Trong đó, Nhà nước ta rất chú trọng việc chuyển đổi từ CTNN sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (CTTNHH một thành viên). Nội Dung I. Khái quát về CTNN và CTTNHH một thành viên. 1. Khái niệm Công ty nhà nước. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật DNNN năm 2003: “CTNN là DNNN sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức, quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của luật này”. Theo đó, CTNN có những đặc trưng pháp lý là: Thứ nhất, CTNN là tổ chức kinh tế của Nhà nước, là một trong những cơ sở kinh tế của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện chức năng kinh tế nhà nước. Chúng vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xã hội. Các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội này tùy theo từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử mà Nhà nước giao khác nhau. Nhà nước thông qua CTNN để tác động đến nền kinh tế thị trường theo hướng có lợi phuccj vụ cho các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Thứ hai, CTNN do Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn, thành lập, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và công ích. Phần vốn Nhà nước đầu tư từ ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, tài sản trong CTNN là tài sản của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước là một thiết chế do vậy, giao cho nhiều cơ quan khác nhau thực hiện quyền sở hữu của CTNN đã dẫn tới hậu quả là tạo ra một khối lượng khổng lồ các CTNN và một cơ chế chồng chéo, kìm hãm phát triển doanh nghiệp. Thứ ba, CTNN là một pháp nhân, có tư cách pháp lý độc lập, với cơ cấu tổ chức chặt chẽ. CTNN tiến hành sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài sản hiện có, do vậy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cần sớm được xác định và mở rộng cho CTNN. Như vậy, tuy CTNN là một phần trong hệ thống DNNN, nhưng có thể phân biệt được CTNN với DNNN. Nội hàm khái niệm của CTNN đã thu hẹp lại, không còn đồng nhất với khái niệm DNNN như trước đây. DNNN là một khái niệm rộng bao gồm các DNNN đầu tư toàn bộ vốn điều lệ hay có cổ phần, vốn góp chi phối. CTNN là một dạng đặc biệt của DNNN. 2. Vai trò của công ty nhà nước. Việc xác định vị trí, vai trò của CTNN trong nền kinh tế là tùy thuộc vào mỗi quốc gia và từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Từ các quan điểm của Đảng, Nhà nước và thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta, có thể thấy CTNN có những vai trò quan trọng sau: Một là, CTNN là một trong những công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm rõ lực lượng nòng cốt để hướng nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Đây không chỉ là vai trò kinh tế mà còn là vai trò chính trị đặc biệt quan trọng của DNNN nói chung và CTNN nói riêng. Hai là, CTNN là một trong những bảo đảm cho điều kiện phát triển, hững cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ba là, Hệ thống CTNN góp phần quan trọng khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường. Do đó, CTNN được thành lập nhằm đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn là những nơi, khu vực thiết yếu, quan trọng song song các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, không thể đầu tư hoặc không đủ khả năng tham gia. Như việc đầu tư, sản xuất phát triển các tỉnh miền núi… Bốn là, CTNN là lực lượng xung kích trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, đi đầu và góp phần đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm là, CTNN góp phần quan trọng vào việc tích lũy, đóng góp cho ngân sách nhà nước. Sáu là, CTNN góp phần không nhỏ trong việc đảm nhận những trách nhiệm xã hội như: giải quyết việc làm cho người lao động; nhất là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; phát triển những vùng khó khăn, kém phát triển; cung cấp dịch vụ bảo đảm các mục tiêu xã hội v.v.. Bảy là, Trong điều kiện hiện nay, CTNN còn được Nhà nước sử dụng như những yếu tố mang tính hạt nhân, nòng cốt trong việc liên doanh, liên kết làm đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Qua đó, vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa bảo đảm định hướng XHCN cho nền kinh tế. 3. Tính tất yếu của việc chuyển đổi CTNN. 3.1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi. 3.1.1. Cơ sở lý luận. Đối với Việt Nam từ trước đến nay, khu vực kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế quốc dân, là trụ cột của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong thời kỳ tồn tại cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Chuyển sang cơ chế thị trường, việc làm thế nào để các CTNN vốn hình thành trong nền kinh tế kế hoạch trước kia có thể tiếp tục tồn tại và phát triển đã trở thành một vấn đề cấp bách cần phải giải quyết. Bước sang thời kỳ mới kinh tế ngoài quốc doanh trong nước phát triển mạnh mẽ, các CTNN dần mất vị trí độc quyền trong các ngành nghề lĩnh vực. Các CTNN lúc này không những phải đương đầu với các thành phần kinh tế khác trong nước mà còn phải đương đầu cạnh tranh với hàng hóa và kỹ thuật nước ngoài. Cải cách CTNN trong bối cảnh đó được coi là khâu trung tâm để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của CTNN. Nhưng các CTNN vẫn còn tồn tại những mạt hạn chế yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào ngành lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn lạc hậu; quản lý còn yếu kém; chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước; v.v.. 3.1.2. Cơ sở thực tiễn. Như đã phân tích ở trên, qua một thời gian Đảng và Nhà nước cũng đã có những điều chỉnh với khối CTNN cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường thì sự chuyển biến như vậy là chưa đủ. Với sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, của hoạt động đàu tư nước ngoài tại Việt Nam thì CTNN đã gặp khó khăn và bộc lộ những hạn chế của nó. Đặt ra việc chuyển đổi loại hình thức của CTNN sẽ tìm ra giải pháp mới cho vấn đề sản xuất kinh doanh của CTNN. Từ đó, giúp nó hoạt động hiệu quả hơn, khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế hướng tới xây dựng nó theo mô hình kinh tế hiện đại là hết sức cần thiết. Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, ASEM, WTO, nhưng việc gì cũng có hai mặt của nó. Việc tham gia các tổ chức đã và sẽ đặt ra những thời cơ cũng như thách thức trong việc thực hiện thể chế kinh tế vủa nước ta. Đặc biệt đối với WTO, để có thể tận dụng được hết những điều kiện thuận lợi khi đã trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cần phải hiểu các nguyên tắc, thủ tục gia nhập WTO, cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình gia nhập của mình, để từ đó đưa ra những đối sách thích hợp. Một trong những yêu cầu quan trọng là Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách hệ thống pháp luật và đổi mới quản lý Nhà nước bằng pháp luật, với nền kinh tế theo hướng minh bạch, bình đẳng. Trong đó, có vấn đề về chuyển đổi khối CTNN. Mặc dù, các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, trong đó có WTO không quy định việc điều chỉnh cơ cấu, phạm vi CTNN đối với các thành viên gia nhập, nhưng việc tạo ra một “sân chơi công bằng” trong sản xuất và kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân là một trong những vấn đề mà WTO và các thành viên hết sức quan tâm. Điều XVII Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) quy định: “ Các quốc gia phải cam kết rằng nếu muốn thành lập DNNN, cho dù đặt ở đâu, hay trao cho bất cứ doanh nghiệp nào những ưu đãi dù là hình thức hay thực tế thì các doanh nghiệp đó trong các hoạt động mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu phải ứng xử phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối xử được thỏa thuận này quy định với các biện pháp của Chính phủ áp dụng với các nhà xuất nhập khẩu tư nhân”. Từ quy định trên cho thấy, yêu cầu đối với các nước gia nhập WTO là phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các DNNN và công ty tư nhân, giữa các CTNN với các công ty nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, các thành viên còn phải cam kết giảm dần vai trò của các DNNN, còn đối với một số lĩnh vực cần phải giữ lại sự độc quyền của Nhà nước thì phải xác định lộ trình bãi bỏ và phải thông báo với các thành viên của WTO. Có thể thấy, đây chính là một trong các yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi từ mô hình DNNN nói chung hay CTNN nói riêng. Do đó, việc cải cách kinh tế là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, yêu cầu cải cách toàn diện khối CTNN cả về cơ cấu và cơ chế quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh trước hết là trong nước và cao hơn là trên trường quốc tế. 3.2. Tính chủ quan của việc chuyển đổi CTNN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước quản lý các hoạt động doanh nghiệp nói chung, CTNN nói riêng bằng các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế v.v.. Do đó, việc chuyển đổi hình thức CTNN ở nước ta còn xuất phát từ nội tại phát triển nền kinh tế ở nước ta. Nó thể hiện ở những khía cạnh: - Đây là phương thức hữu hiệu nhất để tách bạch hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các CTNN. - Việc chuyển đổi CTNN là phân biệt quan trọng nhằm xác lập địa vị pháp lý của CTNN nói riêng và DNNN nói chung trong nền kinh tế, đồng thời quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ sở hữu nhà nước đối với CTNN. - Việc chuyển đổi các CTNN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của CTNN, từ đó đưa hệ thống DNNN chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại. 4. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên. Với việc chọn công ty TNHH một thành viên là một hình thức chuyển đổi xuất phát từ các ưu thế của công ty TNHH một thành viên (theo quy định tại LDN năm 2005). Đó là: Một là, Công ty do một tổ chức hay một cá nhân là chủ sở hữu (được gọi là chủ sở hữu công ty), không có quyền phát hành cổ phiếu, chủ sở hữu công ty không được rút một phần hoặc toàn bộ vốn đã góp và công ty mà chỉ có quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số vốn cho tổ chức, cá nhân khác; chủ sở hữu không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả; chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Hai là, cơ cầu tổ chức của công ty được tổ chức theo một trong hai mô hình sau (tùy thuộc vào quy mô và ngành nghề kinh doanh): - Mô hình: Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên. - Mô hình: Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên. Quyền hạn của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên do điều lệ công ty quy định căn cứ vào LDN (2005) và các quy định khác có liên quan. Ba là, quyền và nghĩa vụ của CTTNHH tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác là đối tượng của LDN 2005 (công ty cổ phần, CTTNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân). Nhìn chung quyền của công ty được mở rộng hơn so với CTNN, nhất là về quyền sử dụng, định đoạt tài sản của công ty, quyền quyết định các dự án đầu tư hay bán tài sản có giá trị trên 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty. Cuối cùng, đặc điểm quan trọng và là đặc điểm khác biệt về chủ sở hữu của CTTNHH một thành viên so với CTNN là công ty chỉ có một tổ chức hay một cá nhân làm chủ sở hữu đối với nó, thay vì nhiều cơ quan tổ chức cùng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu. Chính vì CTTNHH một thành viên mang những đặc điểm như vậy nên việc chuyển đổi CTNN sang CTTNHH một thành viên chính là thực hiện tổng thể các biện pháp nhằm tạo môi trường và điều kiện để các CTNN chuyển đổi có các đặc điểm đó. Đây sẽ là một quá trình thực hiện gồm những nội dung theo một trình tự thủ tục nhất định, trong đó không chỉ bao gồm nhứng thủ tục hành chính – pháp lý mà còn gồm cả các bước chuyển về nội dung kinh tế, chuyển về tổ chức quản lý nội bộ bên trong công ty và xác định lại cá nhân hay tổ chức làm chủ sở hữu công ty, chuyển đổi cơ chế, chính sách, quan hệ của chủ sở hữu với công ty để chuyển CTNN sang CTTNHH một thành viên với các đặc điểm nêu trên. II. Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Qua các quy định của pháp luật cũng như quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp có thể đưa ra khái niệm “chuyển đổi doanh nghiệp là một biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp mà kết quả là sau quá trình thực hiện, các doanh nhiệp tham gia chuyển đổi mang một diện mạo mới khác với loại hình tổ chức vốn có, tức là tạo ra một doanh nghiệp khác loại”. Chuyển đổi doanh nghiệp được hiểu là chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên chịu sự điều chỉnh của LDNNN 2003 và LDN 2005, cùng với các Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 8/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên, Thông tư số 25/2007/TT-BTC ngày 02 tháng 4 năm 2007 của Bộ tài chính về hướng dẫn xử lý tài chính khi chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên Cho đến nay, CTNN của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước XHCN, đều tồn tại một vấn đề nổi bật, đó chính là sự không rạch ròi về người sở hữu, khó làm ràng buộc trách nhiệm kinh doanh gắn với nó là sự không rành mạch, khó thực hiện; lấy giám sát và can thiệp về hành chính thay cho sự ràng buộc về kinh tế. Ở Việt Nam đây cũng chính là vấn đề nổi cộm của các CTNN. Điều này là nguồn gốc của nhiều điểm bất cập, hạn chế trong cơ chế kinh doanh của các công ty này. Muốn giải quyết được tình trạng đó, yêu cầu đặt ra hàng đầu là phải tách rời quyền sở hữu với quyền kinh doanh. Hạt nhân để thực hiện được yêu cầu đó chính là “công ty hóa” chuyển đổi CTNN thành các loại hình doanh nghiệp thuộc sự điều chỉnh của LDN năm 2005. Trong đó có CTTNHH một thành viên đã được Nhà nước quan tâm xây dựng. Các nội dung chuyển đổi đã được ghi nhận khá đầy đủ chi tiết và cụ thể. 1. Đối tượng chuyển đổi. Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 8/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên (sau đây gọi là Nghị định số 95/2006/NĐ-CP) quy định: “1. Đối tượng áp dụng gồm: a) Công ty nhà nước độc lập; b) Công ty nhà nước là công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con; công ty mẹ của tập đoàn kinh tế do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (gọi chung là công ty mẹ); c) Công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước; d) Đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc tổng công ty nhà nước được Thủ tướng Chính phủ cho phép”. Tuy nhiên, không phải toàn bộ các CTNN đều có thể chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, mà chỉ những CTNN đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại trên mới được phép chuyển đổi. Sở dĩ pháp luật quy định chỉ có các CTNN hoạt động độc lập, hoạt động kinh doanh thuộc danh mục Nhà nước củng, phát triển, duy trì 100% sở hữu được chuyển đổi thành CTTNHH một thành viên là vì các công ty hoạt động công ích do còn được Nhà nước giao kế hoạch, được hỗ trợ bù đắp các chi phí nên không đủ điều kiện “TNHH” của một CTTNHH một thành viên cũng như chế độ TNHH của chủ sở hữu công ty, vì vậy không thể trở thành đối tượng được chuyển đổi. Đối với những công ty mà Nhà nước không nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ, pháp luật không cho phép các công ty này được quyền chuyển đổi thành CTTNHH một thành viên bởi: đặc tính của công ty đó khi mà chuyển đổi thành CTTNHH một thành viên là vẫn không thay đổi bản chất sở hữu mà chỉ thay đổi về hình thức pháp lý. Vì vậy, việc quy định những đối tượng chuyển đổi chỉ bao gồm những CTNN nắm giữ 100% vốn điều lệ là rất hợp lý. Điều đó cũng có nghĩa, các CTNN thuộc diện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, giải thể, phá sản và các CTNN nằm trong kế hoạc cổ phần hóa không thể là đối tượng được quyền chuyển đổi. Vì các CTNN này thuộc diện chuyển đổi quyền sở hữu. Điều đó làm mất đi bản chất của việc chuyển đổi từ hình thức CTNN sang CTTNHH một thành viên (như nêu trên). Tóm lại, các CTNN thuộc đối tượng chuyển đôit thành CTTNHH một thành viên gồm: các công ty độc lập; thuộc danh mục Nhà nước củng cố, phát triển, duy trì 100% sở hữu; các công ty mẹ; các công ty không thuộc diện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, giải thể, phá sản hoặc không nằm trong kế hoạch cổ phần hóa. 2. Điều kiện chuyển đổi từ CTNN sang CTTNHH một thành viên. Theo quy định của LDN 2005 và Nghị định số 95/2006/NĐ-CP thì điều kiện để chuyển đổi CTNN sang CTTNHH một thành viên gồm: - CTNN thuộc các ngành, các lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; - Có mức vốn điều lệ không thấp hơn 30 tỷ đồng đối với CTNN độc lập hay đơn vị hạch toán phụ thuộc của tổng công yt, của công ty mẹ và 500 tỷ đồng đối với công ty mẹ (theo quy địnht tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ); - Đối với các ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật quy định phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ của công ty không được thấp hơn vốn pháp định; - Tất cả các tài sản của tổng công ty, đơn vị thành viên của tổng công ty khi chuyển đổi đều được tính bằng giá trị; - Điều lệ của CTTNHH một thành viên do công ty mẹ soạn thảo và chủ sở hữu phê duyệt. Công ty chuyển đổi phải ĐKKD và thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của LDN 2005. Sau khi được cấp GCNĐKKD, CTTNHH một thành viên phải làm thủ tục đăng ký lại quyền sở hữu đối với tài sản được chuyển từ CTNN sang tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCNĐKKD. Mặt khác, để đảm bảo lợi ích cho người lao động trong các DNNN chuyển đổi, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN. Theo đó, DNNN chuyển đổi phải có trách nhiệm “xác định phương án săp xếp lao động, xác định số lao động cần thiết theo yêu cầu của sản xuất, kinh doanh, xác định số lao động dôi dư và số tienf trợ cấp cho từng người lao động và giải quyết chính sách, chế đội với lao động dôi dư”. 3. Trình tự, thủ tục chuyển đổi. Về hình thức, chuyển đổi chỉ là sự thay đổi về loại hình công ty. Nhưng về thực chất, sự thay đổi đó lại dẫn đến hàng loạt sự thay đổi bên trong của CTNN như: thay đổi cơ cấu phòng ban, vị trí, chức danh quản lý, thay đổi cơ cấu vốn, tài sản trong công ty… Chính vì vậy, để bảo đảm được tác dụng và hiệu quả của việc chuyển đổi, quá trình chuyển đổi nhất thiết phải được thực hiện một cách khoa học, tuần tự theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và hợp lý. Trình tự chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên được quy định rõ trong Chương II Nghị định số 95/2006/NĐ-CP. Theo văn bản này, quá trình chuyển đổi bao gồm 4
Luận văn liên quan