Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển đổi này, các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập, hoạt động kém hiệu quả, chưa thực sự tương xứng với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần, cụ thể như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút. Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có các chủ trương về đổi mới các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, như: cổ phần hoá một bộ phận DNNN, sắp xếp lại các DNNN, bán khoán, cho thuê, hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. trong đó có giải pháp chuyển đổi một số DNNN thành Công ty cổ phần (CTCP) hay Cổ phần hoá (CPH) các DNNN được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như cho nhiều bộ phận xã hội khác.
Hơn nữa, theo kinh nghiệm của một số nước phát triển, việc CPH đã đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm với lợi ích của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo hơn, có trách nhiệm hơn với công việc kinh doanh của mình. Từ đó hiệu quả kinh tế - xã hội được nâng cao rõ rệt.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, đòi hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị, như vậy sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về CPH trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiều nội dung của chính sách CPH và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn hạn chế của CPH, từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
Với mong muốn đóng góp một phần công sức trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN ở nước ta, em đã chọn đề tài “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam: lí luận và thực tiễn” .
Nghiên cứu vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, niên luận của em được chia làm 3 phần chính như sau:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Phần thứ hai: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua.
Phần thứ ba: Quan điểm và một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà .
53 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………….5
NỘI DUNG ……………………………………………………………………….7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC …………………….......7
1.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta………………………………………………………………………..........7
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước………7
1.1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước……………………………….......7
1.1.2.1. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm………7
1.1.2.2. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước………………………………………………………………………………..8
1.1.2.3. Cạnh tranh với khu vực tư nhân……………………………………….......8
1.1.3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ………………………………………9
1.1.3.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước……………………..9
1.1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay……………………………………………………………………...9
1.2.Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN……………………………..11
1.2.1.Cơ sở lí luận của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước…………………….11
1.2.1.1.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của C.Mác.............11
1.2.1.2.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của Đảng và Nhà nước………………………………………………………………………………14
1.2.2.Thực tiễn cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước……………………………16
1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN của một số nước trên thế giới …………………………………………………………………………………..18
1.3.1.Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc……………………………………….18
1.3.2.Cổ phần hóa DNNN ở một số nước khác………………………………....20
1.3.3. Một số điều rút ra từ cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới…………….21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA………………………………………………….23
2.1. Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam………………………………..23
2.1.1. Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996) CPH tự nguyện……………………………...24
2.1.2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm……………..26
2.1.3. Giai đoạn 3(6/1998-5/2002) Tăng tốc chương trình CPH ……………........27
2.1.4. Giai đoạn 4 (6/2002-nay)…………………………………………………...28
2.2. Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam ………….32
2.2.1. Những thành tựu……………………………………………………………33
2.2.1.1. Những thành tựu mang tính định lượng………………………………….33
2.2.1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ………………………………………………………….35
2.2.1.2.1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa ……………………………………………………………....................35
2.2.1.2.2. Về huy động vốn………………………………………………………36
2.2.1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động …………………………………………………………………………………….37
2.2.2. Những hạn chế……………………………………………………………..38
2.2.2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn chậm……………………………………………………………….38
2.2.2.2. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài ………………………………………………40
2.2.2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ, việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập ………………..41
2.2.2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn chưa chặt chẽ ………………………………42
2.2.2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của xã hội …………………………………………………...42
2.2.2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp ………………………..43
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.44
3.1. Bối cảnh mới ………………………………………………………………...44
3.2. Yêu cầu của vấn đề Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện mới …………………………………………………………………………….…45
3.3. Giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN …………………...46
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………...51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………...52
LỜI MỞ ĐẦU
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển đổi này, các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập, hoạt động kém hiệu quả, chưa thực sự tương xứng với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần, cụ thể như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút.... Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có các chủ trương về đổi mới các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, như: cổ phần hoá một bộ phận DNNN, sắp xếp lại các DNNN, bán khoán, cho thuê, hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... trong đó có giải pháp chuyển đổi một số DNNN thành Công ty cổ phần (CTCP) hay Cổ phần hoá (CPH) các DNNN được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như cho nhiều bộ phận xã hội khác.
Hơn nữa, theo kinh nghiệm của một số nước phát triển, việc CPH đã đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm với lợi ích của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo hơn, có trách nhiệm hơn với công việc kinh doanh của mình. Từ đó hiệu quả kinh tế - xã hội được nâng cao rõ rệt.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, đòi hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị, như vậy sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về CPH trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiều nội dung của chính sách CPH và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn hạn chế của CPH, từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
Với mong muốn đóng góp một phần công sức trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN ở nước ta, em đã chọn đề tài “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam: lí luận và thực tiễn” .
Nghiên cứu vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, niên luận của em được chia làm 3 phần chính như sau:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Phần thứ hai: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua.
Phần thứ ba: Quan điểm và một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà .
Trong khuôn khổ bài viết có hạn, nên không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô giáo, để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn !
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
Dưới góc độ chủ sở hữu, Doanh nghiệp được gọi là DNNN khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột, về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân. Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối.
Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là các Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các DNNN có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các DNNN phải có những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng sẽ thất bại trong cạnh tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay.
1.1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
1.1.2.1. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm.
DNNN nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các Doanh nghiệp lại sử dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.
1.1.2.2. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các DNNN hoàn toàn không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì Doanh nghiệp kém hiệu quả, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như: xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối cùng, không ai biết DNNN nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi DNNN. Không nên quên rằng DNNN là phương tiện chứ không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân chúng để nuôi một vài Doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong đó có không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải là của toàn dân chứ không phải của riêng các DNNN và Nhà nước cần hành động vì lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người
trong DNNN.
Cạnh tranh với khu vực tư nhân.
Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, DNNN không phải chỉ cạnh tranh với các Doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các Doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc quyền cho các Doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới.
1.1.3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
1.1.3.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ “cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty hợp danh.
Vậy Cổ phần hóa DNNN là gì? “ Cổ phần hóa DNNN là đột phá vào sở hữu nhà nước của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) mô hình cũ, theo tư duy mới của Đảng ta về sở hữu Xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và cụ thể hóa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì thế, CPH DNNN thực sự là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, rất nhạy cảm.
1.1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các DNNN, vấn đề cải cách DNNN từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là trước thời điểm thực hiện CPH, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (DNNN theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách DNNN được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu quả của DNNN hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của DNNN ở nước ta. Nhiều DNNN đã trở thành bình phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách DNNN đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận khá rộng rãi là DNNN thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong DNNN ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi DNNN đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu trong DNNN chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp phải.
Cải cách DNNN có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau như: bán DNNN, cho thuê DNNN, cải cách cơ chế quản lý DNNN… Cổ phần hoá DNNN chỉ là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn đề sở hữu.
Những giải pháp cải cách DNNN khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá Doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩđến chứ chưa nói là triển khai nó.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN
Quá trình cổ phần hóa DNNN có cả những thành công và những va vấp lệch lạc. Những thành công chủ yếu là gặt hái được nhiều kinh nghiệm, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề không chỉ trong phạm vi cổ phần hóa mà cả trong những lĩnh vực hệ trọng hơn, như sản xuất đổi mới DNNN và cơ chế quản lý.
1.2.1. Cơ sở lí luận của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước
1.2.1.1. Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của C.Mác
Về thực chất hình thức Công ty cổ phần đầu tiên được C.Mác đánh giá và khái quát một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các Công ty cổ phần là một bước tiến của lực lượng sản xuất.
- Các Công ty cổ phần đã biến những người sở hữu tư bản thành những người sở hữu thuần túy. Một mặt chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của người khác. Mặt khác là những nhà tư bản – tiền tệ thuần túy. Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời chức năng của nhà tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế.
- Làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với các doanh nghiệp riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó.
- Các Công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hợp, tức là thành những chức năng xã hội.
Bên cạnh những thành công đó thì C.Mác cũng phân tích những hạn chế (tiêu cực) của các Công ty cổ phần. C.Mác chủ yếu phân tích những ảnh hưởng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, so sánh Công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa với Công ty hợp tác của công nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản có thể hình thức sản xuất mới này sẽ đưa đến việc thiết lập độc quyền và đưa đến sự can thiệp của Nhà nước.
Như vậy sự xuất hiện của các Công ty cổ phần theo lí luận của C.Mác là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông.
Quá trình cổ phần hóa là một bộ phận DNNN ở nước ta có nhiều nét đặc thù, đó là cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sở hữu xã hội, toàn dân. Mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành Công ty cố phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của DNNN. Cụ thể là tìm một hình thức quản lí vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa đảm bảo quản lí một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. Chúng ta đã đưa ra nhiều hình thức Công ty cổ phần nhưng có thể gói gọn trong 2 nhóm chính:
- Nhóm các Công ty cổ phần trong đó nhà nước có tham gia cổ phần như: giữ nguyên giá trị của doanh nghiệp kêu gọi, thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, bán một phần tài sản doanh nghiệp, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp. Tất cả các hình thức cổ phần hóa theo 3 dạng trên thì nhà nước hoặc là nắm giữ cổ phiếu khống chế (51%) hoặc là không nắm giữ cổ phiếu khống chế.
- Loại hình cổ phần hóa theo thể thức nhà nước bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động: nhằm rút vốn, đầu tư vào những ngành lĩnh vực quan trọng, then chốt, địa bàn quan trọng, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế.
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào thì Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp đa sở hữu. Khi người lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì họ cũng đã gắn lợi ích của bản thân vào lợi ích của doanh nghiệp, tạo ra sự giám sát tập thể đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra cơ chế phân phối hài hòa giữa doanh nghiệp, nhà nước và người lao động. Nhờ đó mà hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có điều kiện được nâng lên.
Như vậy có thể nói quá trình cổ phần hóa một bộ phận của DNNN không phải là quá trình tư nhân hóa. Bởi vì nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, những lĩnh vực cần thiết, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước không được củng cố mà còn có thể bị yếu đi nếu cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh kém. Việc bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ, những lĩnh vực mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể làm tốt hơn DNNN. Nhà nước sẽ lựa chọn hình thức bán phù hợp và nếu bán theo cách để cho người lao động có cổ phần ưu đãi hay cổ phần không chia thì rõ ràng không thể nói đó là tư nhân hóa.
Cổ phần hóa cũng xuất phát từ yêu cầu đổi mới DNNN. DNNN nắm trong tay những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Việc sử dụng lãng phí, không hieuj quả cao các nguồn lực khan hiếm là một trong những nhân tố làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế của nước ta. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế nước ta trong những năm qua không có nghĩa là nền kinh tế nước ta đang vận hành trơn tru, mà sự tăng trưởng cao đó như các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo l