Đề tài Công nghệ sản xuất bia tại nhà máy Bia Huế (HUDA)

Bia là loại thức uống rất giàu dinh dưỡng, có độcồn thấp. Nó giúp cho ta tiêu hoá tốt nhờcó chứa một hệenzim tiêu hoá rất phong phú, đặc biệt là hệenzim amylaza, và quan trọng nhất là đáp ứng nhu cầu giải khát cho con người. Nhà máy bia Huế được thành lập ngày 20/10/1990 với quyết định số 905/QĐ/UB của ủy ban nhân dân tỉnh thừa thiên huế. Nhà máy ra đời theo hình thức liên doanh có vốn góp từcác đơn vịkinh tếquốc doanh trong tỉnh và vốn vay ngân hàng với sốvốn đầu tưban đầu là 2.4 triệu USD và công suất 3 triệu lit/năm. Nhà máy được xây dựng trên khu đất có diện tích 67000 m 2 , nằm ởmặt tiền đường Nguyễn Sinh Cung huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Phía Tây giáp sông Hương, cách cảng Thuận An khoảng 7 Km, cạnh quốc lộ1A do đó rất thuận tiện trong việc giao thông và vận chuyển hàng hoá. Sau 10 tháng xây dựng, từtháng 2/1990 đến 11/1990. Sản phẩm của nhà máy bia Huda ra đời vào cuối tháng 11/1990. Bia Huda được sản suất theo quy trình công nghệtiên tiến nhất của Hãng DANBREWCONSULT-ĐAN MẠCH cung cấp thiết bịvà kỹthuật công nghệ. Sự ra đời của việc liên doanh giữa nhà máy bia Huếvới hãng TUBORG INTERNATIONAL A/S (TIAS) và quỹcông nghiệp hoá dành cho các nước phát triển (IUF Đan Mạch) gọi là công ty bia Huế, từ đó giúp công ty giới thiệu loại bia có chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế.

pdf20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6413 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghệ sản xuất bia tại nhà máy Bia Huế (HUDA), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:1 Lời mở đầu Bia là loại thức uống rất giàu dinh dưỡng, có độ cồn thấp. Nó giúp cho ta tiêu hoá tốt nhờ có chứa một hệ enzim tiêu hoá rất phong phú, đặc biệt là hệ enzim amylaza, và quan trọng nhất là đáp ứng nhu cầu giải khát cho con người. Nhà máy bia Huế được thành lập ngày 20/10/1990 với quyết định số 905/QĐ/UB của ủy ban nhân dân tỉnh thừa thiên huế. Nhà máy ra đời theo hình thức liên doanh có vốn góp từ các đơn vị kinh tế quốc doanh trong tỉnh và vốn vay ngân hàng với số vốn đầu tư ban đầu là 2.4 triệu USD và công suất 3 triệu lit/năm. Nhà máy được xây dựng trên khu đất có diện tích 67000 m2, nằm ở mặt tiền đường Nguyễn Sinh Cung huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Phía Tây giáp sông Hương, cách cảng Thuận An khoảng 7 Km, cạnh quốc lộ 1A do đó rất thuận tiện trong việc giao thông và vận chuyển hàng hoá. Sau 10 tháng xây dựng, từ tháng 2/1990 đến 11/1990. Sản phẩm của nhà máy bia Huda ra đời vào cuối tháng 11/1990. Bia Huda được sản suất theo quy trình công nghệ tiên tiến nhất của Hãng DANBREWCONSULT-ĐAN MẠCH cung cấp thiết bị và kỹ thuật công nghệ. Sự ra đời của việc liên doanh giữa nhà máy bia Huế với hãng TUBORG INTERNATIONAL A/S (TIAS) và quỹ công nghiệp hoá dành cho các nước phát triển (IUF Đan Mạch) gọi là công ty bia Huế, từ đó giúp công ty giới thiệu loại bia có chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế. Chất lượng cao và giá cả hợp lý là chiến lược lâu dài của công ty bia Huế đặc biệt là với sản phẩm bia Huda đã được nhà máy phát triển vược bậc. Công suất của nhà máy không ngừng tăng, có thể nêu sản lượng qua một số năm như sau : Năm Sản lượng (triệu lit/năm) 1991 3 1992 6 1993 12 1995 30 1998 50 Sản phẩm của công ty bia Huế được khách hàng chấp nhận và ưa chuộng trong và cả ngoài nước. Bia Huda chiếm vị trí hàng đầu tại các tỉnh miền Trung như Huế, Quãng Trị, Quãng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và có mặt trên cả nước. Ngoài ra sản phẩm của công ty là loại bia đầu tiên xuất khẩu sang Mỹ. Từ đó đến nay, công ty liên tục xuất khẩu bia sang Mỹ, Canada, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Lào với nhãn hiệu sản phẩm HUE BEER tạo nên tiếng vang lớn trên thị trường thế giới, mở ra triển vọng mới, thúc đẩy sự phát triển mạnh hơn. Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:2 ☻``` Hoa houblon Lọc QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ TỔNG QUÁT Chai Lắng xoáy tâm Làm lạnh 160C Thùng lên men Thùng bia trong Chiết Chiết lon Lon Ghép mí Thành phẩm Máy rửa chai Chiết chai Đóng nắp Thanh trùng Dán nhãn Malt Nghiền Thùng lọc Nồi Houblon Gạo Nghiền Nồi gạo Nồi malt H20 Không khí(O2) Men Thanh trùng Cân Cân Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:3 A/. Phân xưởng nấu: Quy trình công nghệ nấu: a) Thuyết minh quy trình công nghệ: Nguyên liệu chính trong công đoạn này là: malt, hoa houblon và nước; nguyên liệu thay thế là gạo ngoài ra còn bổ sung hóa chất và enzim. Malt (70%) được đem đi nghiền bởi máy nghiền hai cặp trục, nghiền malt sao cho vỏ trấu càng nguyên vẹn càng tốt vì lớp vỏ càng lớn càng nguyên vẹn sẽ là lớp lọc dày xốp thuận lợi cho qua trình lọc. Nội nhũ malt thì nghiền càng mịn càng tốt nhưng đảm bảo một mức độ nghiền nhất định vì mịn quá thì cũng cản trở quá trình lọc tiếp theo. Gạo (30%) được đem đi nghiền bởi máy nghiền 1 cặp trục, nghiền càng mịn càng tốt mục đích để phá vỡ tế bào tinh bột thuận lợi cho quá trình đường hóa. Gạo nghiền xong được đưa vào nồi gạo. Gạo và malt sau khi nghiền đạt yêu cầu lần lược cho thùng chứa tương ứng. Trong nồi gạo ngoài nước ra còn bổ sung thêm một lượng malt lót nhất định để làm loãng dịch, tránh hiện tượng cháy nồi. Quá trình nấu người ta còn bổ sung thêm một lượng caso4, cacl2 và chế phẩm enzim chịu nhiệt độ cao có tên là Termamin. Mục đích của việc bổ sung 2 muối trên là nhằm để giảm ph xúc tiến quá trình lắng cặn đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên men về sau. Nói tóm lại, mục đích chính của quá trình nấu là sự hồ hóa hoàn toàn lượng tinh bột có trong gạo. Quá trình xảy ra như sau: lúc đầu nhiệt độ nước trong nồi gạo ở 770C, sau đó nâng lên 900C và giữ trong 20 phút, nghỉ 10 phút, tiếp tục nâng đến nhiệt độ sôi và giữ trong 20 phút. Ở nồi malt, lúc đầu hòa malt ở nhiệt độ 42oc. Chuyển hoàn toàn lượng trong nồi gạo vào nồi malt gọi là hội cháo. Giai đoạn này nhiệt độ của nồi malt nâng dần lên 650C, giữ trong 60phút để tiếp đường hóa tiếp tục. Để theo dõi mức độ đường hóa ta sử dụng iôd. Tiếp đến ta sử dụng hơi để nâng nhiệt độ của nồi malt lên nhiệt độ 760C (đây là nhiệt độ của α-amylaza hoạt động) tiếp đến ta tiến hành quá trình lọc. Mục đích của quá trình lọc nhằm tách triệt để dịch đường ra khỏi bã. Dịch sau khi đường hóa xong được bơm đến thùng lọc, tại đây quá trình xảy ra hai giai đoạn; giai đọan lọc dịch đầu và giai đoạn rửa bã. Rửa bằng nước 76 0C cho đến khi nào độ đường trong nước rửa nhỏ hơn 0,8 – 1% và ph < 6 thì dừng lại, nếu tiếp tục rửa thì ph của dịch đường sẽ tăng làm hòa tan những hợp chất không mong muốn. Dịch đường sau khi ra khỏi thùng lọc được đưa đi houblon hóa. Mục đích của việc houblon hóa nhằm trích ly các chất đắng, chất thơm có trong hoa vào trong bia, ổn định thành phần dịch đường, làm cho dịch đường có nồng độ thích hợp theo yêu cầu, keo tụ các protid, vô hoạt enzim và thanh trùng dịch đường. Tại nồi houblon, phải tính toán nâng nhiệt sao cho khi quá trình lọc kết thúc thì dịch trong nồi bắt đầu sôi, lúc này cho hoa houblon dưới dạng cao hoa và hoa viên, thời gian houblon hóa khoảng 70 phút. Sau khi houblon hóa xong, dịch được đưa vào thùng lắng Whirlpool để tách bã. Tiếp đó dịch được đem di làm lạnh trong thiết bị trao Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:4 đổi nhiệt bản mỏng đạt nhiệt độ 160C chuẩn bị cho công đoạn lên men. Thời gian dịch lưu lại trong thiết bị này khoảng 20 phút. BIỂU ĐỒ NÂNG NHIỆT VÀ GIỮ NHIỆT CỦA QUÁ TRÌNH NẤU: b) Các thiết bị chính trong phân xưởng nấu: i. Máy nghiền malt: • Mục đích: Để nghiền malt thành mãnh nhỏ, tăng bề mặt tiếp xúc với nước thích hợp thuận lợi cho quá trình nấu. • Cấu tạo: (Hình số: ) • Nguyên tắc hoạt động: Hai cặp trục của máy nghiền được phân bố phía trên và phía dưới của sàng rung. Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:5 Malt sau khi nghiền ở cặp trục thứ nhất, được đưa xuống sàng rung, phần lọt sàng được thu gom vào thùng chứa, phần không lọt sàng được đưa vào cặp trục thứ hai để nghiền lại một lần nữa. Yêu cầu: Malt sau khi nghiền, vỏ trấu của nó càng nguyên càng tốt vì lớp trấu góp phần tạo nên lớp lọc về sau đồng thời hạn chế các chất không có lợi có trong vỏ trấu vào trong bia. ii. Nồi nấu gạo: • Cấu tạo: (Hình số: ) • Mục đích: Để hồ hóa hoàn toàn lượng tinh bột có trong gạo. • Nguyên tắc hoạt động: Gạo sau khi nghiền cùng với malt lót được đưa vào nồi, có chứa nước. Thiết bị có dạng thân trụ đáy cầu, nắp có dạng hình nón có lắp ống thoát hơi. Hệ thống cấp hơi gián tiếp để gia nhiệt đồng thời thân nồi, đáy nồi được bao bọc bởi một lớp bảo ôn. Trục nồi nấu có lắp cánh khuấy để đảo trộn dịch, tránh hiện tượng gạo bị vón cục. Khi tiến hành nấu hơi đi qua các ống hơi truyền nhiệt cho thành nồi và đáy nồi để đun nóng dịch cháo. Ngoài ra thiết bị có lắp hệ thống đường ống nước vệ sinh ở phía trên nhằm vệ sinh thiết bị. iii. Nồi nấu malt: • Cấu tạo: (Hình số: ) • Mục đích: Thực hiện quá trình đường hóa tinh bột. • Nguyên tắc hoạt động: Malt sau khi nghiền cùng với nước được đưa vào nồi nhờ bộ phối trộn. Thiết bị có dạng thân trụ đáy cầu kích thước lớn hơn ở nồi gạo, nắp có dạng hình nón có lắp ống thoát hơi. Hệ thống cấp hơi gián tiếp để gia nhiệt đồng thời thân nồi, đáy nồi được bao bọc bởi một lớp bảo ôn. Trục nồi nấu có lắp cánh khuấy để đảo trộn dịch, tránh hiện tượng vón cục. Khi tiến hành nấu hơi đi qua các ống hơi truyền nhiệt cho thành nồi và đáy nồi để đun nóng dịch cháo. Ngoài ra thiết bị có lắp hệ thống đường ống nước vệ sinh ở phía trên nhằm vệ sinh thiết bị. iv. Thùng lọc: • Mục đích: Thiết bị sử dụng để tách triệt để dịch đường ra khỏi bã nấu. • Cấu tạo: (Hình số: ) Thiết bị thân trụ đáy bằng, gần đáy thiết bị có lớp lưới lọc bằng kim loại. Bên trong thiết bị có cánh khuấy có tác dụng hình thành lớp lọc và cào bã; bộ phận cánh khuấy gồm ba cánh được hàn kín trên trục, trên mỗi cánh có gắn các thanh xoắn và Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:6 thanh thẳng cũng như các tấm đồng cào bã. Cánh khuấy được vận hành bằng mô tơ dẫn động. Đáy thiết bị có lắp hệ thống ống gom dịch lọc. Ngoài ra ở phần rìa đáy có hố thoát bã; phía dưới là thùng chứa bã với cơ cấu vít tải đẩy bã ra ngoài. Thiết bị còn có các cơ cấu phụ trợ như thùng cân bằng, hệ thống nước rửa bã và hệ nước vệ sinh. • Nguyên tắc hoạt động: Ban đầu cho dịch đường vào và hồi lưu qua thùng cân bằng áp, vào lại thiết bị nhằm hình thành nên lớp lọc giã; sau đó khi dịch đã trong suốt tiến hành mở van ở thùng cân bằng áp đóng van hồi lưu để thu dịch lọc. Trước khi lọc cho nước ấm vào đến ngập bề mặt đáy giả để khi cháo vào không bị bít bề mặt lưới lọc và hạn chế sự tiếp xúc với oxy. Khi dịch đưa vào thiết bị thì cánh khuấy quay nhằm gạn đều bã lên lớp lưới lọc, vận tốc cánh khuấy rất chậm. Trong thiết bị xảy ra hai giai đoạn: giai đọan lọc dịch đầu và giai đoạn lọc rửa bã. v. Nồi houblon hóa: • Cấu tạo: (Hình số: ) Nồi có dạng hình trụ đáy cầu Bên trong nồi có thiết bị trao đổi nhiệt dạng ống chùm, phía trên có hệ thống phân phốidịch hình nón. • Mục đích chính: Truyền vị đắng của hoa vào bia, dưới tác dụng của nhiệt độ sẽ chuyển đổi α- axit đắng (không tan trong nước, trong bia) thành Iso- α axít đắng (hòa tan trong nước, trong bia). • Nguyên tắc hoạt động: Dịch đường từ thùng lọc được đưa vào nồi Houblon hóa sao cho khi kết thúc quá trình lọc thì dịch ở nồi Houblon bắt đầu sôi. Lúc này ta bắt đầu cho hoa houblon vào. Hoa houblon ở đây ta sử dụng là dạng cao hoa và hoa viên. Thời gian houblon hóa khoảng 70 phút. Dịch được đưa vào dưới đáy thiết bị lên và sau khi houblon xong cũng được tháo ra ngoài ở phía đáy thùng. Trong quá trình houblon hóa nhờ sự chênh lệch về nhiệt độ và tỷ trọng của dịch do đó xảy ra quá trình đối lưu tự nhiên cho nên dịch được đảo trộn mạnh dẫn đến quá trình houblon hóa xảy ra dễ dàng. vi. Thùng Whirlpool: • Cấu tạo: (Hình số: ) • Mục đích: Ta dùng thiết bị này để tách bã hoa, thiết bị dạng hình trụ. Dịch được bơm vàothùng qua đường ống có đột thu để có vận tốc lớn trước khi vào thiết bị, dịch được đưa vào theo phương tiếp tuyến với thùng và tạo nên lực Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:7 xoáy tâm, cặn hoa được lắng và tập trung ở tâm của đáy thùng, dịch trong được đưa qua thiết bị làm lạnh trước khi tiên hành lên men. Bã hoa được lấy ra theo cách thủ công. vii. Thiết bị làm lạnh: • Cấu tạo: (Hình số: ) Dùng thiết bị làm lạnh kiểu bản mỏng. Sử dụng nước làm lạnh 2-4 0C. • Nguyên tắc hoạt động: Dịch ra khỏi thùng Whirlpool khoảng 98 0C được bơm vào thiết bị làm lạnh kiểu bản mỏng. Trong thiết bị này gồm nhiều Block nối với nhau, trong mỗi Block dịch đường nóng và nước đi ngược chiều nhau và khi qua Block khác thì dịch và nước lạnh đồng thời đảo chiều. Qua mỗi Block nước lạnh sẽ thu nhiệt của dịch nóng làm cho nhiệt độ dịch đường giảm và của nước tăng lên. Cứ tiếp tục như thế cho đến Block cuối cùng nhiệt độ của dịch đường hạ xuống còn 16 0C, nhiệt độ của nước tăng lên 78 0C, và nước này dùng lại cho quá trình nấu sau đó. viii. Chế độ vệ sinh thiết bị nấu: (Hình số: ) Thông thường cuối tuần tiến hành vệ sinh toàn bộ thiết bị, riêng đối với nồi houblon thì 8 mẻ phải vệ sinh một lần. Vì nồi này cần nâng nhiệt lớn nên nhiệt độ cao hiện tượng cặn bám do nhiệt thường xuyên xãy ra làm giảm hệ số truyền nhiệt của thiết bị. Quá trình vệ sinh: Lúc đầu rửa bằng nước nóng 80 0C trong vòng 5 phút, nước rửa này được đưa xuống cống. Sau đó bơm naoh nóng với nồng độ 2% có thêm chất tẩy rửa bề mặt để rửa thiết bị; xút được tuần hoàn trở lại thùng chứa. Và cuối cùng được rửa lại bằng nước nóng. Lần này nước nóng được tuần hoàn lại về thùng chứa. Đối với những thùng có nhiệt độ: nồi gạo, nồi malt, nồi houblon thì thời gian rửa là 60 phút. Còn đối với thùng có ít hoặc không có pnhiệt thì thời gian làm vệ sinh chỉ 30 phút. Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:8 B/. Phân xưởng lên men: I/. Quy trình công nghệ: Mục đích: Dưới tác dụng của nấm men sẽ chuyển đường thành rượu, CO2 và các sản phẩm phụ khác góp phần tạo hương vị cho bia. Thuyết minh dây chuyền công nghệ: Dịch đường sau khi làm lạnh xuống 16 0C được đưa vào thùng lên men. Trên đường ống dẫn dịch đường vào thùng len men người ta tiến hành bơm men và sục không khí vô khuẩn cho dịch đường nhằm lên men sinh khối. Ở đây, lượng men cần phải cung cấp cho một thùng lên men được chuyển một lần vào mẻ đầu tiên chứ không phải tính riêng cho từng mẻ. Riêng Oxy thì mẻ nào cũng phải cấp. Chú ý Oxy phải được vô trùng hàm lượng 8-10 ppm. Mục đích cấp Oxy vào nhằm đảm bảo cho nấm men sinh trưởng và phát triển ở giai đoạn đầu của quá trình lên men, thực hiện lên men sinh khối. Sau khi đã bơm dịch đầy thùng, tiến hành lên men ở 16 0C trong khoảng 8 ngày. Sau 2 ngày lên men đầu tiên ta tiến hành xã cặn ở đáy thùng. Ở giai đoạn này quá trình lên men xảy ra mạnh, ohần lớn đường đã chuyển thành rượu, CO2 và các sản phẩm phụ khác. Do CO2 tạo ra nhiều nên người ta đã tiến hành thu hồi CO2. Việc thu hồi CO2 này có rất nhiều ý nghĩa quan trọng. Sau 8 ngày lên men ở 16 0C, hạ nhiệt độ của bia non xuống còn 8 0C. Tốc độ hạ nhiệt độ phải từ từ khoảng 3giờ/1 0C. Quá trình giữ và hạ nhiệt được thực hiện tự động nhờ hệ thống áo lạnh của thiết bị lên men. Ở giai đoạn này men được lắng xuống và ta tiến hành thu hồi men ở đáy thiết bị. Quá trình lên men vẫn tiếp tục. Khi tiến hành lên men ở nhiệt độ này phải thường xuyên theo dõi và kiểm tra chỉ số VDK. Nếu VDK < 0.15 ppm thì hạ nhiệt độ của dịch xuống -1.5 0C. Tốc độ hạ nhiệt cũng giống như trên. Thời gian của quá trình lên men khoảng 12 ngày. Sau khi lam lạnh đến -1,5 0C cho bia chạy qua máy làm lạnh bia rồi được bơm ngay vào máy lọc khung bản. Sau khi qua máy lạnh bia được bổ sung thêm CO2. Mục đích của việc làm lạnh bằng thiết bị bản tấm để tránh tổn thất nhiệt trên ống dẫn hoặc khối dịch ở thùng lên men có nhiệt độ không đều. Trong trường hợp thùng lên men bảo đảm làm lạnh đều và đường ống dẫn được bảo ôn tốt thì vai trò của máy lạnh bản mỏng sẽ rất nhỏ. Trong quá trình lọc có sử dụng đất lọc để quá trình lọc tốt hơn và hiệu suất cao hơn đồng thời sử dụng thêm chất chống oxi hóa để khử oxi trong quá trình xâm nhập ở bộ phận hòa đất chất chống oxi hóa là Na2S2O5. Bia sau khi ra khỏi máy lọc sẽ được đưa qua túi lọc tinh và ta thu được bia trong rồi đưa vào thùng chứa bia trong. Ở đây bia được lấy mẫu để kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng của bia nếu đạt yêu cầu sẽ được đưa sang phân xưởng chiết. Quá trình nhân giống men cho sản xuất: Giai đoạn 1: Thứ 6 tuần 1 Nuôi cấy bề mặt được bắt đầu bằng cách thêm 100- 150 ml dịch lạnh đã thanh trùng vào bình. Nhiệt độ khoảng 20-21 0C. Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:9 Chậm nhất là thứ 6: Thu hồi 12 lit dịch vào bình Carlsberg, bình và dịch được thanh trùng bằng nồi hấp tự động. Sục khí và làm lạnh đến 20 0C. Giai đoạn 2: Thứ 2 tuần 2 Thể huyền phù của men đã được cấy ở giai đoạn 1 được chuyển sang bình Carlsberg nhiệt độ 20 0C Giai đoạn 3: Thứ 2 tuần 3 Lấy 8-10 hl dịch lạnh vào thùng nhân giống số 3 dịch được thanh trùng ở thùng bằng cách gia nhiệt trên 90 0C (có sục khí nhẹ) và nghỉ ở nhiệt đó khoảng 20phút, nhớ giữ áp suất khoảng 0.5-0.7 bar trong thùng. Dịch được làm lạnh và việc sục khí bằng tay cũng được bắt đầu ở thời điểm đó. Làm lạnh đến 18 0C, thể huyền phù của men từ bình Carlsberg được chuyển sang thùng nhân giống số 3 trong khi đó phải lắc bình để hầu hết men phải ở thể huyền phù. Khi bình trống thì một số dịch từ thùng lại được thùng, rồi lắc và thể huyền phù của men đó lại được chuyển vào thùng. Sục khí 15 phút mỗi 6h đối với men Huda. Giai đoạn 4: thứ hai thứ ba tuần 4 Lấy 40 hl dịch được làm lạnh đến 16 0C và thùng nhân giống số 4. Bia đang lên men ở thùng nhân giông số 3 được chuyển vào thùng số 4. Sau khi chuyển bằng áp suất thì việc sục khí (thổi khí từ thùng số 3 vào đáy thùng số 4) vẫn được tiếp tục khoảng 20 phút để sục khí vào dịch và để trộn men với dịch. Giai đoạn 5: thứ 5 thứ 6 tuần 4 Thêm 100 hl dịch (16 0C) đã được sục khí vào thùng đang nhân giống số 4. Giai đoạn 6: thứ hai tuần 5 Bia từ thùng đang nhân giống số 4 được chuyển sang một thùng lên men lớn, đưa vào thùng lên men 2 mẻ 250 hl của dịch đã được sục khí. Nhiệt độ ở 16 0C. Bia ở giai đoạn lên men cuối vẫn theo thủ tục bình thường. Men được thu hồi vào thùng thu hồi men (chậm) khi số tế bào thấp có nghĩa là khi men đã lắng, và thu hồi lại sau khi làm lạnh đến 8 0C. Sau khi thu hồi phải ghi nhận số lượng và phân tích mẫu cho số tế bào để có khái niệm về số lượng. II/. Một số thiết bị sử dụng trong phân xưởng lên men: 1/. Thiết bị lên men: • Cấu tạo: (Hình số: ) Thiết bị có thân hình trụ, đáy côn với góc ở đáy thiết bị khoảng 750. Trên thân thiệt bị có hệ thống áo lạnh. Đối với những thùng lớn thường có 3 áo lạnh: 2 áo ở thân và 1 áo ở đáy thiết bị. Chất tải lạnh đi trong áo lạnh là cồn 300, nhiệt độ -4÷5 0C. Ở bên ngoài thiết bị được bọc bởi một lớp bảo ôn giữ nhiệt độ trong thùng lên men một cách ổn định không bị ảnh hưởng nhiệt độ môi trường. • Nguyên tắc hoạt động: Dịch đường được đưa vào thiết bị theo đường ống (9).Sau khi lên men bia tạo thành cũng được lấy ra theo đường ống (9). Trong quá trình lên men khí CO2 tạo ra, nếu CO2 tạo ra nhiều đến áp suất 0.5 bar được tháo ra nhờ van tự động có lò xo Báo cáo thực tập tốt nghiệp ĐĐ: Công ty Bia Huế SVTH: Đặng-Hữu-Tuệ Lớp:00H2B Trang:10 đặt ở áp suất ở (2).Đến khi áp suất trong thùng thấp xuống thì lò xo đẩy chốt đóng van lại. Thiết bị lên men làm việc ở áp suất dư 0.5 bar. Khi tiến hành vệ sinh thiết bị nước rửa và xút theo đường ống dẫn (11) phun từ trên xuống. Trong thời gian lên men quá trình giữ nhiệt và hạ nhiệt được thực hiện nhờ hệ thống áo lạnh. Cặn và men lắng trong thiết bị được tháo ra ở đáy. 2/. Thiết bị lọc khung bản: • Cấu tạo: (Hình số: ) Thiết bị gồm một dãy các khung và bản xếp xen kẽ và liên tiếp nhau. Giữa khung và bản có lớp giấy lọc. Diện tích bề mặt là 0.36 m2, kích thước của khung là: 60x60 cm. Phía trên và dưới máy lọc có hai đường ống dẫn bia vào và ra. Các khung, bản và giấy lọc được ép lại với nhau bởi máy ép thủy lực đặt ở một đầu của máy. • Nguyên tắc hoạt động: Trước khi lọc, phối trộn đất lọc với nước vô trùng đề oxi rồi bơm vào thiết bị để tạo lớp đất lọc. Sau khi tạo lớp đất xong ta tiến hành bơm bia cần lọc có hòa trộn với đất lọc và chất chống oxi hóa theo tỉ lệ thích hợp vào các khung nhờ các lỗ thông giữa đường ống dẫn và khung. Tại đây bia được lọc qua lớp đất lọc rồi qua các tấm giấy lọc. Tiếp đến đi vào bản và đi ra ngoài nhờ các lỗ nhỏ thông giữa bản và ống gom. Thông thường áp suất vào luôn lớn hơn áp suất ra. Nếu áp suất vào tăng hơn 7bar thì phải dừng lọc lúc này phải xã đất lọc cũ thay bằng lớp đất lọc mới đồng thời tiến hành vệ sinh thiết bị. Lưu lượng lọc 150 hl/h. Trong trường hợp