Đề tài Công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam

Hiện nay Việt Nam có khoảng 8 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có 6,8 triệu ha trồng lúa. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người là 0,1 ha và đang có xu hướng giảm dần, do tăng số dân và quá trình đô thị hoá cũng như do tình hình ô nhiễm môi trường làm cho đất có chiều hướng nghèo kiệt đi. Nguồn nhân lực trẻ, khoẻ ở nông thôn là nguồn tài nguyên quý để phát triển nông nghiệp, nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Theo số liệu thống kê, có khoảng 6 triệu thanh niên thiếu việc làm. Nguy cơ thiếu dinh dưỡng, thất học, thất nghiệp, tội phạm gia tăng trong nông thôn khá rõ. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao thu nhập của người nông dân, bảo đảm an ninh lương thực, sức khoẻ và môi trường là vấn đề bức bách, không thể giải quyết bằng các biện pháp thông thường, mà phải bằng con đường khoa học công nghệ. Phát triển công nghệ giúp ngành nông nghiệp phát triển cũng là giúp phát triển đời sống của người nông dân Việt Nam.Chính vì vậy , việc thực hiện chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp là một nhu cầu cấp thiết. Việt Nam sắp gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO là một tổ chức có mục đích khuyến khích sự mua bán giữa các nước hội viên thông qua việc giảm thiểu hoặc loại bỏ những rào cản thương mại. Như vậy đây là một cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập vào thị trường nông sản to lớn của thế giới. Để có được một vị trí nhất định trong thị trường lớn này , đòi hỏi nền nông nghiệp Việt nam cần được ứng dụng những công nghệ khoa học tiên tiến.Việc phát triển công nghệ trong nông nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đáng được chúng ta quan tâm, tìm hiểu.

doc16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2809 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO CÔNG NGHỆ TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHÓM THỰC HIỆN: SEVEN - số thứ tự 7 (gồm 2 nhóm X-girls STT 7 và nhóm Sakưra STT 13) 1-Nguyễn Phương Thảo Anh1-cđ2 2-Phạm Quỳnh Lê Anh 1-cđ2 3-Phùng Bích Thảo Anh 2-cđ2 4-Nguyễn Minh Trang Anh 2-cđ2 5-Ngô Phương Thúy Anh 3-cđ2 6-Tạ Thị Uyên Nhật-cđ2 7-Võ Minh Thu Nhật-cđ2 8-Tạ Tiểu Oanh Nhật-cđ2 9- Nguyễn Lan Hương Nhật-cđ2 10- Nguyễn Mai Phương Nhật-cđ2 11- Nguyễn Phương Dung Nhật-cđ2 A/ MỤC ĐÍCH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: Hiện nay Việt Nam có khoảng 8 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có 6,8 triệu ha trồng lúa. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người là 0,1 ha và đang có xu hướng giảm dần, do tăng số dân và quá trình đô thị hoá cũng như do tình hình ô nhiễm môi trường làm cho đất có chiều hướng nghèo kiệt đi. Nguồn nhân lực trẻ, khoẻ ở nông thôn là nguồn tài nguyên quý để phát triển nông nghiệp, nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Theo số liệu thống kê, có khoảng 6 triệu thanh niên thiếu việc làm. Nguy cơ thiếu dinh dưỡng, thất học, thất nghiệp, tội phạm gia tăng trong nông thôn khá rõ. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao thu nhập của người nông dân, bảo đảm an ninh lương thực, sức khoẻ và môi trường là vấn đề bức bách, không thể giải quyết bằng các biện pháp thông thường, mà phải bằng con đường khoa học công nghệ. Phát triển công nghệ giúp ngành nông nghiệp phát triển cũng là giúp phát triển đời sống của người nông dân Việt Nam.Chính vì vậy , việc thực hiện chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp là một nhu cầu cấp thiết. Việt Nam sắp gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO là một tổ chức có mục đích khuyến khích sự mua bán giữa các nước hội viên thông qua việc giảm thiểu hoặc loại bỏ những rào cản thương mại. Như vậy đây là một cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập vào thị trường nông sản to lớn của thế giới. Để có được một vị trí nhất định trong thị trường lớn này , đòi hỏi nền nông nghiệp Việt nam cần được ứng dụng những công nghệ khoa học tiên tiến.Việc phát triển công nghệ trong nông nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đáng được chúng ta quan tâm, tìm hiểu. B/ NỘI DUNG I/ Thành tựu công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam thời gian qua Công nghệ là khái niệm được sử dụng rất phổ biến hiện nay nhưng lại có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2003, Chương I, Điều 1 thì :” Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng , bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. Phát triển Khoa học và công nghệ trong ngành Nông nghiệp rất được Nhà nước và các cơ quan chức năng chú trọng trong thời gian qua. Ở nước ta, các cơ quan nghiên cứu đã hoàn thiện nhiều quy trình, tiến bộ kỹ thuật, công nhận hàng chục giống rau, hoa mới, thích hợp cho vụ sớm và trái vụ. Các nghiên cứu về giá thể sản xuất rau, hoa giống theo quy mô công nghiệp không dùng đất, sử dụng bạt che phủ đất và tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa cũng đã được thử nghiệm bước đầu cho kết quả tốt. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác thuộc lĩnh vực giống, bảo vệ thực vật, phân bón, thuỷ lợi, chăn nuôi bước đầu đã có những kết quả ứng dụng trong sản xuất. Nhiều công nghệ cao (công nghệ sinh học, vật liệu mới…) đã được các doanh nghiệp ứng dụng trong sản xuất. Một số khu Nông nghiệp công nghệ cao của Nhà nước, của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã hình thành và phát triển. Đặc biệt công nghệ sinh học là ngành công nghệ phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp thì Việt Nam cũng đã có những bước phát triển đáng kể như việc cho hoa nở trong ống nghiệm theo ý con người, việc nhân bản vô tính thành công trên động vật, việc sản xuất thành công hạt giống nhân tạo …và hàng loạt nguồn gen quý được khôi phục và phát triển. Bên cạnh những công nghệ, kỹ thuật học hỏi và được chuyển giao từ nhiều nước trên thế giới thì ngành Công nghệ nông nghiệp ở nước ta thời gian gần đây đã cho ra đời nhiều phát minh,sáng kiến về mọi mặt đã phục vụ hiệu quả cho nền Nông nghịêp nước nhà. Đối với ngành cơ khí Nông nghiệp trong những năm qua đã cho ra đời hàng loạt những công cụ, máy móc hiện đại cho năng suất cao và thay thế đáng kể cho sức lao động của con người. Điều đáng mững ở đây là những phát minh ấy không chỉ là của những nhà khoa học mà nó còn là sản phẩm của chính những người nông dân mà trình độ của họ chưa qua bậc phổ thông như: - Ông Nguyễn Văn Khách, 46 tuổi, nông dân xã Tân Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, đã bỏ ra nhiều thời gian nghiên cứu, tự thiết kế và chế tạo thành công chiếc máy phun tưới nước bán tự động đưa vào sử dụng tại vườn nhà… - Sản phẩm Máy tỉa hạt có tên TH3 (viết tắt từ tỉa hạt - theo hàng - tổng hợp) của hai nông dân thị trấn Mộc Hóa (Long An) Tô Hồng Quân và Đặng Văn Tiễn - Ông Nguyễn Văn Sành ở xã Nam Trung, huyện Nam Sách, Hải Dương đã chế tạo thành công máy thái hành tự động có năng suất bằng 20 lao động thủ công. - Anh Nguyễn Kim Chính ở thôn Đại Ân, xã Cát Nhơn (Phù Cát) cải tiến hoàn hảo chiếc máy cắt lúa hiệu FUTU 1 (do Công ty Phụ tùng máy 1 - thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên sản xuất) đem lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp. Từ cải tiến này, anh đã đoạt giải khuyến khích trong cuộc thi "Sáng tạo kỹ thuật nhà nông toàn quốc" lần thứ nhất năm 2004-2005. - Ông Lâm Văn Thắng (nông dân xã Tiên Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh) và anh Trần Quốc Trung (em ruột anh Trần Quốc Hải - “Hai Lúa” chế tạo máy bay trực thăng) đã chế tạo thành công máy diệt rầy nâu, muỗi bướm. - Nguyễn Văn Cơ, một nông dân chính gốc ở xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị vừa chế tạo ra là một chiếc máy hút bùn cho ao tôm đầu tiên của miền trung. - Ông Nguyễn Đức Hoàng (ngụ Bình An I, An Hòa, Châu Thành, An Giang), một nông dân 40 tuổi, học chưa hết lớp 6 trình làng chiếc máy gặt đập liên hợp vừa cắt, vừa tuốt ra hạt lúa. … Hàng năm, nước ta đẵ bước vào thử nghiệm hàng triệu giống cây trồng mới cho năng suất cao, sức chống chọi với sâu bệnh và khí hậu lớn đã phần nào cải thiện được đời sống của người nông dân. II/ Thành tựu công nghệ trong ngành nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Vào WTO, thị trường Việt Nam rộng mở, thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thuỷ sản đã giảm dần theo lộ trình, sự bảo hộ của Nhà nước cho nông nghiệp cũng hạn chế theo cam kết WTO. Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường nông sản như các thành viên khác. Hàng nông sản các nước với chất lượng và độ sạch cao hơn, giá cả cạnh tranh... cũng đã thâm nhập vào các siêu thị Việt Nam.. Đó là thịt bò Mỹ, Ốt-xtrây-lia-a, quả tươi Trung Quốc, gạo Thái Lan, lúa mỳ, sữa và các sản phẩm sữa châu Âu... Tuy số lượng hàng nông sản ngoại nhập chưa nhiều, nhưng cũng tăng khá: 10 tháng đầu năm 2007 giá trị nhập khẩu lúa mỳ tăng 44%, sữa và sản phẩm sữa tăng 19,5%, dầu mỡ thực vật tăng 68,2%, thức ăn gia súc tăng 51,5% so cùng kỳ 2006. Do có nông sản ngoại nhập nên sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên “sân nhà”. Nhận thức được thách thức đó, tư duy của một bộ phận hộ nông dân, trang trại đã có bước chuyển biến bước đầu theo lộ trình gia nhập WTO. Tư duy sản xuất nông nghiệp sạch, chất lượng cao, chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường đã bước đầu thay thế tư duy năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi giá của các năm trước. Bằng chứng là vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chủ trương giảm, thậm chí bỏ lúa vụ 3, chất lượng thấp để chuyển sang vụ lúa đông xuân chất lượng cao hơn phù hợp với nhu cầu thị trường. Vùng cà phê Tây Nguyên cũng chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến và thị trường xuất khẩu. Phong trào nuôi thuỷ sản thâm canh và bán thâm canh, đảm bảo sản phẩm không có dư lượng kháng sinh được rộng mở ở các vùng để đáp ứng thị trường xuất khẩu. Các vùng sản xuất tập trung sản phẩm sạch như: chè Thái Nguyên, Suối Giàng, trái cây, rau trồng theo kỹ thuật công nghệ cao, chăn nuôi lợn thịt hướng nạc... bước đầu có bước chuyển biến tích cực nên sản phẩm xuất khẩu năm qua đã tăng khá nhanh so với khi chưa vào WTO. Nhờ đó, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu tăng chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả thấp hơn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. III/ Hiện trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam Nông nghiệp công nghệ cao đã đạt được khá nhiều thành tựu trong năm vừa qua nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật nước ngoài sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Ở nước ta, các cơ quan nghiên cứu đã hoàn thiện nhiều quy trình, tiến bộ kỹ thuật, công nhận hàng chục giống rau, hoa mới, thích hợp cho vụ sớm và trái vụ. Các nghiên cứu về giá thể sản xuất rau, hoa giống theo quy mô công nghiệp không dùng đất, sử dụng bạt che phủ đất và tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa cũng đã được thử nghiệm bước đầu cho kết quả tốt. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác thuộc lĩnh vực giống, bảo vệ thực vật, phân bón, thuỷ lợi, chăn nuôi bước đầu đã có những kết quả ứng dụng trong sản xuất. Nhiều công nghệ cao (công nghệ sinh học, vật liệu mới…) đã được các doanh nghiệp ứng dụng trong sản xuất. Một số khu Nông nghiệp công nghệ cao của Nhà nước, của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã hình thành và phát triển. Khu Nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội và Hải Phòng, do chúng ta nhập khẩu “trọn gói” từ nhà màng, thiết bị bên trong cho đến kỹ thuật canh tác. Việc đánh giá hiệu quả toàn diện các mô hình này cần sớm được tiến hành cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, có một số vấn đề mà chúng ta cần cân nhắc: Việc nhập trọn gói như vậy sẽ rất đắt và phụ thuộc; các khu Nông nghiệp công nghệ cao này đều thiếu cán bộ có trình độ giỏi về công nghệ. Qua việc xây dựng và vận hành khu Nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội và Hải Phòng có thể rút ra một số bài học: Khi xây dựng cần hết sức quan tâm tới điều kiện tự nhiên như đất đai, mực nước ngầm, nguồn nước tưới, giao thông; lưu ý trong khi quản lý và khai thác mô hình. Thực tế cho thấy có rất nhiều vấn đề chúng ta phải nghiên cứu cho quy trình canh tác trong nhà lưới, nhà màn (quản lý và xử lý giá thể, quản lý và xử lý dịch hại, quản lý và điều tiết tưới tiêu, làm mát, kể cả việc quản lý về dinh dưỡng...). Vì hai khu Nông nghiệp công nghệ cao trên là nhập trọn gói các quy trình kỹ thuật, trang thiết bị máy móc... nên khi đưa vào điều kiện Việt Nam còn nhiều bất cập (mưa, nắng, bão, mùa vụ, tập quán tiêu thụ, dịch bệnh phát sinh, bảo dưỡng, duy tu các trang thiết bị...). Trong lĩnh vực chăn nuôi, tại thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Bò sữa đã đầu tư chuồng trại khá hoàn chỉnh, có hệ thống phun sương, chuồng ép có khả năng tự động 50% để gieo tinh nhân tạo, khám thai, điều trị phẫu thuật; xây dựng đồng cỏ thâm canh 300 ha, 4 hố ủ chua có sức chứa 3.000 tấn thành phẩm, khu vắt sữa gồm 6 máy (công suất 15 con /máy). Xu hướng nâng quy mô chăn nuôi lên thành trang trại tập trung và ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa là một hình thức chuyển dịch cơ cấu và chuyển dịch cấu trúc trong bản thân ngành chăn nuôi đang được hình thành và phát triển tại thành phố. IV/ Một số điểm mạnh và điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực công nghệ Một số ưu điểm nổi bật : Các vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn, chuyên canh và thâm canh cao như lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; cây cà phê và cao su ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, cây chè ở miền núi phía Bắc, thuỷ sản ở Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã có bước chuyển đổi quy trình sản xuất theo hướng không chạy theo năng suất, số lượng mà quan tâm hơn đến chất lượng, độ sạch và chi phí sản xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chính các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó đã cung cấp nông sản hàng hoá và xuất khẩu cho cả nước và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hoá lớn đã và đang hình thành. Sau một năm vào WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập trung hơn cho các khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO. Đó là chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn. Theo cam kết WTO, mức và đối tượng đầu tư cho nông nghiệp được điều chỉnh tập trung vào những lĩnh vực mà WTO khuyến khích như mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, đào tạo nghề cho nông dân, công nghệ sau thu hoạch.. Nông nghiệp Việt Nam đã mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại, đáp ứng tương đối đầy đủ các yêu cầu của thị trường. Mặc dù từ tháng 11 năm 2006 đến nay, thiên tai, bão lũ lớn xảy ra liên tiếp trên phạm vi cả nước, sâu bệnh, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng gia súc, lợn tai xanh... tàn phá nặng nề, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản; giá cả phân bón vật tư nông nghiệp tăng cao, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, tốc độ tăng trưởng khá cao. Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng khu vực này năm 2007 vẫn đạt 4,3%, trong đó nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng 9,8%, cao hơn năm 2006. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước 1 năm qua vẫn đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống. Nông sản hàng hoá vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như mía đường, rau quả, lúa gạo, chè. Các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết với khách hàng được thực hiện từ đầu năm theo đúng cam kết WTO. C ó được điều đó là do khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường. Cùng với những mặt ưu điểm, nông nghiệp Việt Nam còn những mặt hạn chế: Sau 1 năm vào WTO, vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Tính chung 10 tháng đầu năm 2007, cả nước mới thu hút được 1,66 tỉ USD đầu tư vào khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm 1,47% tổng vốn FDI,tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy tác động của WTO vào thu hút vốn FDI ở khu vực này chưa có gì khởi sắc. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có công nghệ hiện đại vẫn chưa được các nhà đầu tư quan tâm. Nhiều lợi thế chưa được khai thác hợp lý. Lợi thế của nông nghiệp Việt Nam là chi phí lao động thấp so với các nước khác trong khu vực. Lợi thế này nếu được phát huy sẽ là yếu tố giảm giá thành nông sản, tăng sức cạnh tranh trên thị trường sau khi gia nhập WTO. Bên cạnh chi phí vật chất, chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao đông nông nghiệp nói chung thấp. Tiềm năng đất đai cũng là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam nhưng chưa được khai thác hợp lý. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình nông dân cá thể, phổ biến là tự cung tự cấp, rất khó khăn cho cơ giới hoá và thuỷ lợi hoá nên tỷ suất hàng hoá còn thấp. Sản xuất nông nghiệp chưa gắn chặt với chế biến và thị trường tiêu thụ. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng nông nghiệp chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng đất đai, nguồn nước, lao động. Sản xuất lúa là ngành chủ lực của nông nghiệp cả nước nhưng sau 1 năm gia nhập WTO vẫn phát triển không đồng đều. Trong khi năng suất, sản lượng và chất lượng lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng tăng khá nhanh thì 6 vùng còn lại đều tăng chậm và giảm trong năm 2007. Cơ cấu giống lúa vẫn còn mang nặng tính truyền thống, chậm chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá. Chất lượng lúa gạo tuy có tiến bộ song về cơ bản vẫn còn khoảng cách xa với yêu cầu thị trường. Số lượng và tỷ lệ diện tích gieo cấy các giống lúa gạo chất lượng cao, gạo thơm còn quá ít. Ngay cả gạo thơm Việt Nam sản xuất cũng có nhược điểm là giữ mùi không lâu. Lúa hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng lớn lại thu hoạch vào mùa mưa, nhưng tỷ lệ được phơi sấy năm mới chỉ đạt 31% do đó chất lượng không cao. Tỷ lệ thất thoát trong và sau thu hoạch còn lớn 10-13%. Tình hình sản xuất các nông sản khác cũng tương tự. Đa số các khu Nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) vẫn phải sử dụng các hạt giống của những công ty bán và chuyển giao công nghệ. Các giống trong nước chưa có kết quả tốt, chưa xác định được bộ giống phù hợp để chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm có giá bán không cao, do vậy chưa khuyến khích được sản xuất phát triển. Đầu tư cơ sở vật chất (nhà kính, nhà lưới, giàn che...) giá thành cao nên nhiều doanh nghiệp khó chấp nhận. Nhiều thiết bị, công nghệ nhập tỏ ra chưa phù hợp với điều kiện ở nước ta. Điều kiện cách ly chưa tuyệt đối đã ảnh hưởng rất lớn tới năng suất cây trồng. Tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức để phục vụ sản xuất, việc sử dụng các kỹ thuật khai thác gây phá huỷ tự nhiên vẫn diễn ra thường xuyên chưa được kiểm soát ,đe doạ sự đa dạng sinh học và các nguồn gen quý. Các giống cây và con ngoại lai trước khi nhập về chưa được xem xét nghiên cứu kỹ, gây ra thiệt hại cho các giống địa phương như ốc bươu vàng, bèo Nam Mỹ… Chưa xác định được định mức kinh tế - kỹ thuật cho từng loại cây trồng trong từng thời vụ cụ thể. Sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa có vùng chuyên canh sản xuất cung cấp khối lượng nông sản lớn, khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Giá thành sản xuất tăng, dịch bệnh diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của người chăn nuôi. Đặc biệt trong đợt rét đậm rét hại lịch sử tại miền Bắc đầu năm 2008 vừa qua, do sự chủ quan của người nông dân và sự thiếu chính xác, cụ thể của công tác dự báo thời tiết mà tính đến ngày 18/2/2008 đã có hơn 52000 con gia súc bị chết, 146.150 ha lúa, 9.500 ha mạ bị hỏng hoàn toàn vì rét, thiệt hại lên tới 400 tỷ đồng. Nếu trước đó người dân mua bảo hiểm cho gia súc thì ngân sách Nhà nước đã không phải hỗ trợ nhiều, nhưng việc này còn rất xa lạ với ng ười nông dân và chưa có mô hình bảo hiểm nào như vậy tiêu biểu trong thời gian qua. Một số nguyên nhân của những bất cập trong sản xuất nông nghiệp sau 1 năm Việt Nam gia nhập WTO là: - Quy hoạch sản xuất không xuất phát từ điều tra thị trường nên chưa có vùng chuyên canh, thâm canh phù hợp với yêu cầu sản xuất nông sản hàng hoá lớn. Việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn nặng tính tự phát và chưa có sự ràng buộc giữa người sản xuất với người tiêu thụ. - Sản xuất quá manh mún, quy mô quá nhỏ theo hộ gia đình nên rất khó khăn cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản. - Sự bất cập giữa sản xuất tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng không tăng, không gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm - Chưa xây dựng được hệ thống dự báo thị trường, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hiện tại không phù hợp với các thị trường xuất khẩu chủ yếu. Việc sản xuất chủ yếu vẫn là tự phát, thiếu sự phối hợp với cơ quan dự báo thời tiết, không quan tâm đến nhu cầu thị trường…. V/ Cơ hội và thách thức Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực: Cơ hội. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam. Trước hết chúng ta có nhiều thuận lợi hơn cho việc tiếp cận thị trường nông sản thế giới (có
Luận văn liên quan