Đề tài Đặc điểm chung của các nước đang phát triển và liên hệ thực tiễn Việt Nam

Sau chiến tranh thếgiới thứ2,với việc giải phóng thuộc địa, một nhân tốmới đã xuất hiện trên sân khấu chính trịquốc tế: “thếgiới thứ3”. “Thếgiới thứ3” được gọi đểphân biệt với “Thế giới thứ1” là các nước có nền kinh tếphát triển – đi theo con đường TBCN. “Thếgiới thứ2” là những nước có nền kinh tếtương đối phát triển đi theo con đường XHCN. Do đó dưới góc độ kinh tế,bắt đầu từnhững năm 60, các nước thuộc thếgiới thứba còn được gọi là các nước đang phát triển với nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước công nông nghiệp đang từsản xuất nhỏtiến lên con đường công nghiệp hóa.Khi nền kinh tếthếgiới có những bước chuyển đổi theo hướng toàn cầu hóa thì khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng nhiều.Trong khi đó con người ngày càng đòi hỏi phải có cuộc sống tốt đẹp hơn.Vì vậy vấn đềphát triển kinh tế ởcác nước đang phát triển đã trởnên rất cấp bách.Việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và hậu quảcủa tình trạng kém phát triển đểtìm cách khắc phục và tìm ra giải pháp, hướng đi đúng đắn cho nền kinh tếnhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và cùng hòa nhập với nền kinh tếthếgiới.Đểbiết được điều này chúng ta cần nghiên cứu những đặc điểm chung của các nước đang phát triển, nguyên nhân và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế.

pdf17 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 12837 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đặc điểm chung của các nước đang phát triển và liên hệ thực tiễn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1  KINH TẾ PHÁT TRIỂN TS. NGUYỄN CHÍ HẢI ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM 2  MỤC LỤC: 1. Mở đầu: 2. Khái quát về các nước đang phát triển: 2.1. Khái niệm về các nước đang phát triển (LDCs): 2.2. Giới thiệu về một số nước đang phát triển: 3. Những đặc điểm chung của những nước đang phát triển : 4. Quan điểm và biện pháp thoát khỏi vòng luẩn quẩn ở các nước đang phát triển: 4.1. Nguyên nhân của vòng luẩn quẩn nghèo đói: 4.2. Biện pháp thoát khỏi vòng luẩn quẩn ở các nước đang phát triển: 5. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam: 5.1 Tổng quan về nền kinh tế Việt nam qua các chỉ số: 5.2. Những hạn chế của nền kinh tế VN và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến các mục tiêu phát triển: 6. Ý nghĩa và kết luận của việc nghiên cứu: Danh mục tài liệu tham khảo: 3  1.Mở đầu Sau chiến tranh thế giới thứ 2,với việc giải phóng thuộc địa, một nhân tố mới đã xuất hiện trên sân khấu chính trị quốc tế: “thế giới thứ 3”. “Thế giới thứ 3” được gọi để phân biệt với “Thế giới thứ 1” là các nước có nền kinh tế phát triển – đi theo con đường TBCN. “Thế giới thứ 2” là những nước có nền kinh tế tương đối phát triển đi theo con đường XHCN. Do đó dưới góc độ kinh tế,bắt đầu từ những năm 60, các nước thuộc thế giới thứ ba còn được gọi là các nước đang phát triển với nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước công nông nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hóa.Khi nền kinh tế thế giới có những bước chuyển đổi theo hướng toàn cầu hóa thì khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng nhiều.Trong khi đó con người ngày càng đòi hỏi phải có cuộc sống tốt đẹp hơn.Vì vậy vấn đề phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển đã trở nên rất cấp bách.Việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và hậu quả của tình trạng kém phát triển để tìm cách khắc phục và tìm ra giải pháp, hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và cùng hòa nhập với nền kinh tế thế giới.Để biết được điều này chúng ta cần nghiên cứu những đặc điểm chung của các nước đang phát triển, nguyên nhân và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế. 2. Khái quát về các nước đang phát triển: 2.1. Khái niệm về các nước đang phát triển (LDCs): Có nhiều quan điểm nói về các quốc gia đang phát triển,Nước đang phát triển là quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số phát triển con người (HDI) không cao. Ở các nước này, thu nhập đầu người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư bản thấp. "Nước đang phát triển" gần nghĩa với Thế giới thứ ba thường dùng trong Chiến tranh Lạnh. Mức độ phát triển của một xã hội bao hàm cơ sở hạ tầng hiện đại (cả về mặt vật chất và thể chế) và sự chuyển đổi ra khỏi những lĩnh vực sản xuất tạo ra giá trị gia tăng thấp như nông nghiệp và khai thác tài nguyên tự nhiên. Ở các quốc gia phát triển, hệ thống kinh tế dựa trên sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững ở những lĩnh vực dịch vụ, giáo dục, nghiên cứu phát triển, thông tin, v.v.. Việc áp dụng thuật ngữ nước đang phát triển cho toàn thể các nước chưa đạt trình độ nước phát triển trong nhiều trường hợp là không thích hợp, không ít quốc gia nghèo không hề có những cải thiện tình hình kinh tế thậm chí là suy giảm. 2.2. Giới thiệu về một số nước đang phát triển: Theo thống kê của ngân hàng thế giới( WB) hiện nay trên thế giới trong nhóm “Các nước đang phát triển” hiện có khoảng 142 nước . VD: Afghanistan, Albania, Algeria, Angola, Antigua, Argentina, Armenia, Azerbaijan, Bangladesh, Barbados, Hungary, India, Indonesia, Iran, Jamaica, Jordan, Kazakhstan, Uruguay, Vanuatu, Venezuela, Vietnam, West Samoa, Zambia,… 3. Những đặc điểm chung của những nước đang phát triển : Mặc dù các nước đang phát triển (LDCs) có sự tương đồng nhất định về điều kiện lịch sử, địa lý, chính trị và kinh tế, nhưng giữa các nước cũng có sự khác biệt cơ bản tạo nên tính đa dạng 4  cho các nước này.Những khác biệt này chi phối đến việc xác định lợi thế của từng nước.Cụ thể ở đây chúng ta có thể thấy những khác biệt như: - Quy mô đất nước; - Nền tảng/ bối cảnh lịch sử; - Nguồn lực con người và tự nhiên; - Thành phần tôn giáo và dân tộc; - Tầm quan trọng tương đối của các khu vực Tư nhân và Công cộng; - Cơ cấu công nghiệp; - Sự phụ thuộc bên ngoài; - Cơ cấu chính trị, các nhóm lợi ích và quyền lực; Bên cạnh những khác biệt, các nước đang phát triển còn có những đặc điểm cơ bản, giống nhau; Chúng ta xét 4 đặc điểm chính như sau: ¾ Mức sống thấp: Ở các nước đang phát triển, mức sống nói chung đều rất thấp đối với đại đa số dân chúng.Mức sống thấp phản ánh qua thu nhập thấp, thiếu nhà ở, sức khỏe kém, ít được học hành, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cao, tuổi thọ thấp… Mức thu nhập thấp được thể hiện rõ rệt qua mức thu nhập bình quân đầu người (GNI/người). Mức thu nhâp bình quân đầu người thấp,theo thống kê năm 1990 thì thu nhập bình quân đầu người tổng cộng của các nước chậm phát triển tính trung bình ít hơn 1/16 thu nhập bình quân đầu người của các nước giàu.Không chỉ ở các nước giàu mà ở các nước LDCs các mô hình phân phối thu nhập không cân xứng, có sự chênh lệch lớn giữa thu nhập của người giàu và người nghèo, trong đó 20% dân thượng lưu thường có thu nhập cao hơn 5 đến 10 lần so với 40% dân hạ lưu. Phần lớn số dân tộc thuộc thế giới thứ 3 phải chịu cảnh nghèo đói tuyệt đối, từ 650 đến 1300 triệu người phải sống bằng những mức thu nhập tối thiểu dưới 250 USD một năm.Điều này phản ánh khả năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người.Trong những năm gần đây mức thu nhập trung bình có sự thay đổi lớn, tuy nhiên sự chênh lệch giữa các châu lục,các khu vực còn rất lớn.Chúng ta có thể thấy rõ vấn đề này qua các bảng số liệu sau: Bảng 3.1:GNI bình quân đầu người của một số khu vực: GNI bình quân đầu người (2009) Đông Á và Thái Bình Dương 3.143 $ Châu Âu và Trung Á 6.793 $ Mỹ Latinh và Caribbean 6.936 $ Trung Đông và Bắc Phi 3.594 $ Bắc Mỹ 46.739 $ Nam Á 1.088 $ Châu Phi hạ Sahara 1.096 $ Nguồn trích dẫn:IBRD World tables 2005-2009,Báo cáo phát triển thế giới. 5  Bảng 3.2: Tỷ lệ nghèo đói ở các nước LDCs cao hơn các nước phát triển: Tên nước (khu vực) Tỷ lệ đói nghèo mức 1.25$/ngày(2008) Tỷ lệ đói nghèo mức 2$/ngày(2008) Đông Á và Thái Bình Dương 16,8% 38,7% Châu Âu và Trung Á 3,7% 8,9% Mỹ Latinh và Caribbean 8,2% 17,1% Trung Đông và Bắc Phi 3,6% 16,9% Nam Á 40,3% 73,9% Châu Phi hạ Sahara 50,9% 72,9% Nguồn trích dẫn:IBRD World tables 2005, Báo cáo phát triển thế giới,vấn đề nghèo đói. Bảng 3.3: Một số nước có số dân sống dưới 2$/ngày nhiều nhất như: Số dân sống dưới 2USD một ngày ở (%): Tanzania 97 Liberia 95 Nigeria 84 Banladesh 81 Nepal 78 Lao 77 Ấn Độ 76 Congo 74 Haiti 72 Angola 70 Indonesia 54 Việt Nam 48 Nguồn trích dẫn :2008 Population Reference Bureau Ngoài việc phải vật lộn với thu nhập thấp,các nước LDCs còn phải chống chọi với nạn suy dinh dưỡng, bệnh tật và sức khỏe kém.Người ta thống kê rằng ở cả Châu Á và Châu Phi hơn 60% dân số chỉ đáp ứng được những yếu tố tối thiểu về calo cần thiết cho sức khỏe.Lượng thiếu hụt này theo thống kê nó chiếm khoảng 2% lượng ngũ cốc của thế giới.Vấn đề suy dinh dưỡng và sức khỏe kém có phải là do nguyên nhân thiếu lương thực ở các đang phát triển hay là do sự nghèo đói (tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong việc phân phối thu nhập) – 2 vấn đề này có mối liên hệ gián tiếp với nhau.Tuổi thọ ngắn,trong số 42 nước có mức thu nhập thấp nhất thế giới thì tuổi thọ trung bình năm 2008 vào khoảng 56 tuổi so với 67 tuổi ở các nước LDCs khác và 77 tuổi so với các nước phát triển (bảng 3.4). Bảng 3.4:Tuổi thọ trung bình Tuổi thọ trung bình (2008) Châu Phi 55 Châu Mỹ 75 Châu Á 70 6  Châu Âu 76 Nước chậm phát triển 56 Nước kém phát triển 67 Nước phát triển hơn 77 Thế giới 68 Nguồn trích dẫn:IBRD,Báo cáo phát triển thế giới 2005-2009,y tế thế giới. Với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh gấp 10 lần so với các nước phát triển (bảng 3.5).Tỷ lệ người biết chữ thấp, tỷ lệ bỏ học giữa chừng cao, học trình và các phương tiện giáo dục ko đầy đủ và thường là không phù hợp.Trong số các nước kém phát triển nhất thì tỷ lệ biết chữ là 34% so với 65% ở các nước LDCs khác và 99% ở các nước phát triển.Điều này làm cho trình độ lao động của các nước LDCs càng thấp, không đáp ứng được nhu cầu của quốc gia. Sự tác động qua lại của các đặc điểm này có chiều hướng làm trầm trọng thêm và duy trì muôn thủa những vấn đề phổ biến về “ nghèo đói, ngu dốt và bệnh tật” ở các nước đang phát triển. ¾ Tỷ lệ tích lũy thấp: Chúng ta đều biết để phát triển thì phải có nguồn vốn, mà để có vốn tích lũy thì phải hy sinh tiêu dùng.Nhưng khó khăn ở chỗ, đối với các nước đang phát triển nhất là những nước có thu nhập thấp , đã gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn.Ở các nước phát triển thường dành từ 20% - 30% thu nhập để tích lũy .Trong khi đó ở các nước LDCs chỉ có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập, nhưng phần lớn số tiết kiệm này lại phải dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần thiết cho số dân tăng lên.Số dân tăng lên hàng năm ở những nước này là rất lớn.Tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, công nghệ khoa học kỹ thuật để phục vụ sản xuất.Do đó ngày càng hạn chế quy mô tiết kiệm cho tích lũy phát triển kinh tế. Điều đó có thể giải thích được tại sao hằng năm các nước LDCs phải cần các nguồn vốn tài trợ từ các nước phát triển với lãi suất ưu đãi (hoặc không hoàn lại). ¾ Trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp: Ở các nước đang phát triển hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (nông nghiệp chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tỷ lệ này chỉ là 3% ở các nước phát triển)(bảng3. 6), kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu.Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy rằng nền kinh tế phát triển mạnh thì công nghiệp và dịch vụ phải chiếm tỷ trọng lớn.Nền kinh tế thế giới luôn biến chuyển từng ngày với hàng loạt phương thức sản xuất mới ra đời, ngày càng hiện đại hóa. Bảng 3.6: Đóng góp của nông nghiệp trong GDP của một số nước lựa chọn: Đóng góp của nông nghiệp trong GDP (%) Tên nước 2008 Afghanistan 32 Angola 7 Bangladesh 19 Bolivia 13 Brazil 6 China 11 Colombia 9 7  Comoros 46 Congo 40 Dominica 16 Gambia 29 Guyana 28 Indonesia 14 Lao P.D.R. 35 Liberia 61 Mexico 4 Nepal 34 Paraguay 24 Thailand 12 Uganda 30 United Kingdom 1 Vietnam 22 Zambia 21 Nguồn trích dẫn:IBRD,World tables 2005-2009,Báo cáo phát triển thế giới,nông nghiệp và nông thôn. Thực tế cho thấy rằng các nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp.Thay vì trước đây phải nhập hàng hóa từ các nước phát triển thì hiện nay các nước LDCs đã dần phát triển công nghiệp và đã có những ngành công nghiệp mới .Tuy nhiên các ngành công nghiệp này chủ yếu sử dụng kỹ thuật cổ truyền, trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm sản xuất ra thường ở dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất lượng thấp.Trong khi đó các nước phát triển ngày nay đã đạt đến trình độ công nghệ tiên tiến với kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo vượt xa các nước LDCs từ 3 đến 6 thập kỷ, chính khoảng cách công nghệ quá lớn cũng làm cho các nước LDCs khó tận dụng được lợi thế của các nước đi sau do quá trình phân công lao động quốc tế mới đưa lại. ¾ Năng suất lao động thấp: Đây là một đặc điểm quan trọng của các nước LDCs.Một áp lực lớn đối với các nước LDCs là về dân số và việc làm.Dân số ở các nước này vốn đã đông, sự bùng nổ ở các quốc gia này càng tạo ra hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Trên khắp thế giới LDCs, mức năng suất lao động là cực kỳ thấp so với các nước phát triển.Đ iều này có thể giải thích bằng một số khái niệm kinh tế,chẳng hạn như khái niệm năng suất giảm dần.Nếu sử dụng nhiều hơn các yếu tố biến đổi (lao động) mà các yếu tố khác không đổi ( vốn, đất đai, vật liệu…) vẫn không đổi về lượng thì sau một thời điểm nhất định sản phẩm tăng thêm hay sản phẩm cận biên của yếu tố sản suất biến đổi trên sẽ giảm xuống, do đó mức năng suất thấp có thể được giải thích bằng tình trạng không có hoặc thiếu trầm trọng các đầu vào bổ sung như vốn và vật chất hoặc đội ngũ quản lý có kinh nghiệm.Và hầu hết các nước LDCs đang phải đối mặt với các vấn đề trên.Ngoài ra nguyên nhân trên chúng ta nên xét đến khả năng về thể lực và tinh thần cá nhân của người lao động,sức khỏe của người lao động ở các nước LDCs thường kém hơn các nước phát triển do suy nhược cơ thể và không đủ sức lực lẫn tinh thần để chịu được những áp lực cạnh tranh hằng ngày. Ngoài 4 đặc điểm chính trên chúng ta có thể thấy ở các LDCs còn có các đặc điểm sau: 8  ¾ Tốc độ dân số tăng cao và gánh nặng người ăn theo, thất nghiệp nhiều: Theo báo cáo về tình hình dân số thế giới năm 2009 của cơ quan dân số Mỹ đưa ra ngày 12/8/2009 dân số toàn cầu dự tính sẽ là gần 7 tỷ người vào năm 2010, phần lớn sự gia tăng diễn ra ở các nước đang phát triển hoặc nghèo nhất thế giới (97% của sự gia tăng sẽ diễn ra tại Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh và Caribe). Bảng 3.7: Dân số thế giới năm 2008(triệu người) Khu vực Dân số Châu Phi 967 Châu Mỹ 915 Châu Á 4,052 Châu Âu 736 Nước chậm phát triển 5,479 Nước kém phát triển(trừ china) 4,154 Nước phát triển hơn 1,227 Thế giới 6,705 Nguồn trích dẫn:Population Reference Bureau 2008, World Population Data Sheet; Tỷ lệ sinh ở các nước LDCs thường rất cao,quãng từ 35-40 trên 1000 người,trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chưa bằng một nửa.Rõ ràng là, như bảng 3.8 cho thấy, tỷ lệ sinh đẻ có lẽ là một trong cách hữu hiệu để phân biệt các nước chậm phát triển hơn; Bảng 3.8: Tỷ lệ sinh đẻ trên toàn thế giới,2009 Tỷ lệ sinh đẻ Nước 47 Uganda,Congo 33 Guine, Sudan, Coromos, Togo,Palestin… 28 Honduras, Haiti, Tajikistan, Nepal, Laos, Ả Rập Saudi, Sybia 23 Ấn Độ,Algieria, Libya, Dominica, Nicaragua, Bangladesh… 14 Newzealand, Australia, Antigua,Hoa Kỳ, Tabago, Uruguay… 11 Cuba, Canada, Hy Lạp, Slovenia, Tây Ban Nha, Slovakia, Ukraine, Hà Lan, Moldova, Ba Lan, Bulgaria, CH Sec, Bỉ, Phần Lan, Đan Mạch… 9 Nhật Bản, Hàn Quốc, Qatar, Serbia, Đức, Bồ Đào Nha,Áo… Nguồn trích dẫn:Population Reference Bureau 2009, World Population Data Sheet; Ở các nước LDCs số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm một nửa dân số các nước này, trong khi tỷ phần này ở các nước phát triển chỉ bằng 1/4 tổng số dân.Do vậy, lực lượng lao động ở hầu hết các nước LDCs phải hỗ trợ cho trẻ em với tỷ lệ gần như gấp đôi so với các nước giàu có hơn.Trong khi đó số người già trên 64 tuổi ở các nước phát triển là lớn hơn nhiều.Người già và trẻ em thường bị coi là “gánh nặng ăn theo” của xã hội,với hàm ý rằng họ là những thành viên không sản 9  xuất được gì cho xã hội, do đó phải được lao động thường từ 15 đến 64 tuổi hỗ trợ về mặt tài chính. Tuy nhiên các nước LDCs cũng đang phải đối mặt đó là vấn đề thất nghiệp trong độ tuổi lao động, thường thì tỷ lệ này lớn so với các nước phát triển.(Chúng ta có thể quan sát bảng 3.9 ).Một trong những biểu hiện chủ yếu của mức sống thấp ở các nước LDCs là việc sử dụng lao động tương đối chưa hết hoặc chưa có hiệu quả so với các nước phát triển.Khi mà dân số có tốc độ tăng nhanh thì việc làm cho người lao động phải tăng tương xứng, tuy nhiên ở các nước LDCs tốc độ tẳng trưởng kinh tế còn thấp, nền kinh tế chưa đáp ứng đủ việc làm cho người lao động nên thất nghiệp ngày càng tăng. Bảng 3.9:Tình trạng thất nghiệp trên thế giới Các khu vực Thất nghiệp (% của tổng lao động) Đông Á và Thái Bình Dương 4,7% năm 2008 Châu Âu và Trung Á 6,9% năm 2008 Mỹ Latinh và Caribbean 7,3% năm 2008 Trung Đông và Bắc Phi 10,6% năm 2007 Bắc Mỹ 5,8% năm 2008 Nam Á 5,3% năm 2004 Châu Phi hạ Sahara Nguồn: IBRD,World tables 2005-2009,Báo cáo phát triển thế giới, thất nghiệp và việc làm ¾ Sự thống trị, sự phụ thuộc và tính dễ bị tổn thương trong các quan hệ quốc tế: Đối với nhiều nước chậm phát triển, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của tình trạng mức sống thấp, thất nghiệp tăng và sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng, chính là sự phân chia rất không bình đẳng quyền lực kinh tế và chính trị giữa các nước giàu và nước nghèo.Những bất bình đẳng không chỉ bằng việc kiểm soát mô hình thương mại quốc tế, mà còn bằng khả năng trong việc quyết định những điều kiện mà theo đó, công nghệ , viện trợ nước ngoài và vốn tư nhân được chuyển giao cho các nước đang phát triển của các nước phát triển. ™ Trong các đặc điểm đã nêu trên theo chúng tôi thấy đặc điểm quan trọng nhất, là nguyên nhân chính là đặc điểm “tình trạng kỹ thuật của sản xuất kém”, các đặc điểm còn lại là hệ quả của nó. Điều này có thể chứng minh trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới.Sự ra đời của các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với cách mạng công nghiệp.Nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng, các phát minh sáng chế công nghệ kỹ thuật phục vụ sản xuất ngày càng nhiều.Lao động chân tay dần nhường lại cho lao động máy móc,sức lao động ngày càng được đảm bảo.Thì việc một nước nghèo muốn thoát khỏi tình trạng kém phát triển thì phải có trình độ sản xuất tiên tiến là điều kiện đầu tiên và tất yếu.Khi trình độ kỹ thuật sản xuất cao thì năng suất lao động cao,mức sống của con người được cải thiện… 4. Quan điểm và biện pháp thoát khỏi vòng luẩn quẩn ở các nước đang phát triển: 10  Những đặc điểm đặc trưng của các nước LDCs đã phân tích ở trên là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ (xem sơ đồ 1), làm cho khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng. Sơ đồ 1:Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói Ngày nay, đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển. Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn.Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau.Có những nước tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí còn thụt lùi, xã hội rối ren như một số nước Châu Phi cận Sahara,hay một số nước Nam Á.Có những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao,đưa dất nước ra khỏi vòng luẩn quẩn, nhưng lại tiếp tục rơi vào các cuộc khủng hoảng với những vòng luẩn quẩn mới.Bên cạnh đó có những nước đã tạo được tốc độ tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển như, đó là các nước NICs Châu Á: Hongkong, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc.Gần đây các nước Thái Lan,Malaisia, Trung Quốc cũng đã chứng minh cho sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. Biện pháp thoát khỏi vòng luẩn quẩn ở các nước đang phát triển: 4.1. Tăng cường thu hút vốn và công nghệ nước ngoài tạo cơ hội “cất cánh” cho nền kinh tế dựa trên việc tận dụng những nguồn lực trong nước chưa có: Nhà kinh tế học Samuelson đã nghiên cứu rất tỷ mỷ về cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển và đưa ra một cách đã được rất nhiều các nước này áp dụng đó là dựa vào nguồn lực bên ngoài.Ông đua vào học thuyết mình với tên “ cái vòng luẩn quẩn và cú hích từ bên ngoài”. “Cú hích từ bân ngoài” ở đây được hiểu là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài.Với khả năng tích lũy nội bộ thấp như vậy, các nước đang phát triển không thể tự tạo cho mình nguồn vốn đầu tư mà phải nhờ tới nguồn vốn nước ngoài.Nguồn vốn nước ngoài sẽ khắc phục cho khả năng tích lũy thấp bằng cách sử dụng nguồn tích lũy từ các nước khác chuyển sang.Chúng sẽ được sử dụng nhằm hỗ trợ nguồn lực trong n