Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triểnSự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư

Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm thu về, đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, thiết bị, tài nguyên. Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tưọng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích, đối tượng đầu tư được chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận… Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tê xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển cần được xem xét trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sang tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.

doc28 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2714 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triểnSự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1: Đặc điểm của đầu tư phát triển.Sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển 1.1 Đầu tư và đầu tư phát triển Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm thu về, đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, thiết bị, tài nguyên. Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tưọng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích, đối tượng đầu tư được chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận… Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tê xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển cần được xem xét trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sang tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Ở góc độ vĩ mô, đó là thúc đẩy tăng trưỏng kinh tế, góp phần giảI quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Ở góc độ vi mô, đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực… 1.2, Phân loại đầu tư Theo mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư có thể chia đầu tư thành: Đầu tư tài chính: người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để được hưởng lãi suất định trước như gửi tiết kiệm hay mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc hoặc lãi suất tùy thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không làm gia tăng thêm tài sản cho nền kinh tế, nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này, nó chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho một cá nhân, tổ chức. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán. Hoạt động đầu tư này là kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư. Đầu tư thương mại :người có tiền mua hàng hóa và bán với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán. Nếu không xét đến quan hệ ngoại thương thì loại đầu tư này không tạo ra hay làm tăng thêm tài sản cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng thêm tài sản tài chỉnh cho chủ đầu tư. Mặc dù vậy đầu tư thương mại lại giúp cho quá trình lưu thông hàng hóa do đầu tư phát triển tạo ra diễn ra một cách linh hoạt và dễ dàng hơn. Qua đó, nó lại làm cho đầu tư phát triển, tăng tích lũy vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh dịch vụ của các đơn vị cũng như cả nền kinh tế Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó là tiển đề, cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác. Các hình thức đầu tư khác không thể tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển. Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư, đầu tư được chia thành đầu tư gián tíêp và đầu tư trực tiếp: Đầu tư gián tiếp :người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư:mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường chứng khoán thứ cấp. Trong trường hợp này nhà đầu tư có thể được hưởng lợI ích vật chất ( như cổ tích, tiền lãi trái phiếu), lợì ích phi vật chất (quyền biểu quyết, quyền tiên mãi) nhưng không được tham gia quản lý trực tiếp tài sản mà mình bỏ vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp: người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là một hình thức đầu tư trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng giá trị tài sản. Như vậy theo cách tiếp cận này, đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm chủ yếu sau: Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung. vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát trỉển khác. Trên phạm vi nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển bao gồm: vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn lưu động bổ sung và vốn đầu tư phát triển khác.Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản là quan trọng nhất. Đó là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hay là khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế. Quy mô các dự án đầu tư có lớn hay không thể hiện ở nguồn vốn đầu tư. Mặt khác, các dự án đầu tư cũng cần một số lượng lao động rất lớn, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia. Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Do quy mô các dự án đầu tư thường rất lớn nên thời gian hoàn thành các dự án thường tốn rất nhiều thời gian, có khi tới hàng chục năm như các công trình thuỷ điện, xây dựng cầu đường... Thời gian thực hiện các dự án đầu tư dài kéo theo sự ảnh hưởng đến tiến độ nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, do đó có thể làm giảm hiệu quả đầu tư, thời gian thu hồi vốn chậm.Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro cũng như chi phí đầu tư lại càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch vốn đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm hạn chế thấp nhất những mặt tiêu cực có thể xảy ra trong thời kỳ đầu tư. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa vào hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng và đào thải công trình.Các thành quả của hoạt động đầu tư có thể kéo dài hàng chục năm hoặc lâu hơn thế như Vạn lý trường thành ở Trung Quốc, nhà thờ và đấu trường La Mã ở Italia...trong quá trình vận hành các kết quả của đầu tư phát triển chịu tác động cả hai mặt, tích cực và tiêu cực của nhiêù yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội...Do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác đầu tư là rất lớn, nhất là về công tác dự báo về cung cầu thị trường sản phẩm đầu tư trong tương lai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa thành quả đầu tư đưa vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình, chú ý đến cả độ trễ thời gian trong đầu tư. Đây là đặc điểm có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư. Đặc điểm thứ tư là các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Các điều kiện tự nhiên của vùng như khí hậu, đất đai... có tác động rất lớn trong việc thi công, khai thác và vận hành các kết quả đầu tư. Đối với các công trình xây dựng, điều kiện về địa chất ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong thi công mà cả trong giai đoạn đưa công trình vào sử dụng, nếu nó không ổn định sẽ làm giảm tuổi thọ cũng như chất lượng công trình. Tình hình phát triển kinh tế của vùng ảnh hưởng trực tiếp tới việc ra quyết định và quy mô vốn đầu tư. Ngoài ra môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các dự án đầu tư như phong tục tập quán, trình độ văn hóa... Một đặc điểm dễ nhận thấy là hoạt động đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài...nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường rất cao, nhiều vấn đề phát sinh ngoài dự kiến buộc các nhà quản lý và chủ đầu tư cần phải có khả năng nhận diện rủi ro cũng như biện pháp khắc phục kịp thời. Để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả trươc hết cần nhận diện rủi ro. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động đầu tư,các rủi ro về thời tiết ví dụ như trong quá trình đâu tư gặp phải mưa bão, lũ lụt... làm cho các hoạt động thi công công trình đều phải dừng lại ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và hiệu quả đầu tư. Các rủi ro về thị trường như giá cả, cung cầu các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra thay đổi, ví dụ như do thông tin trong sữa Trung Quốc có chất gây bệnh sỏi thận mà cầu về sữa giảm sút nghiêm trọng, hoạt động đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất chế biến sữa của một số doanh nghiệp vì thế cũng bị ngưng trệ...Ngoài ra quá trình đầu tư còn thể gặp rủi ro do điều kiện chính trị xã hội không ổn định. Khi đã nhận diện được các rủi ro nhà đầu tư cần xây dựng các biện pháp phòng chống rủi ro phù hợp với từng loại rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất tác động tiêu cực của nó đến hoạt động đầu tư. Sự ảnh hưởng của các đặc điểm đầu tư phát triển đến công tác đầu tư. 1.Trong công tác quản lý vĩ mô và vi mô 1.1 Cấp vĩ mô Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật về đầu tư một cách chặt chẽ và có hệ thống cũng như các văn bản liên quan như luật đất đai, luật đấu thầu...Các văn bản này có tác dụng khuyến khích đầu tư, hướng các hoạt động đầu tư theo định hưóng của Nhà nước, khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các lĩnh vực đầu tư phát triển. Nhà nước cần có các chính sách để huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Các nguồn vốn có thể huy động được bao gồm nguồn vốn ngân sách, vốn từ dân cư, vốn ODA, FDI, vốn vay thương mại quốc tế. Nhà nước cần có các quy định chặt chẽ về phân bổ vốn đầu tư hợp lý theo tiến độ, đầu tư chiều sâu để mang lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, nhà nước cũng cần có các quy định về quy hoạch, tránh tình trạng quy hoạch treo gây thất thoát lãng phí nguồn tài nguyên. Cùng với đó là đào tạo nguồn nhân lực một cách hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguồn lực con người trong hoạt động đâu tư. Ngoài ra, Hệ thống cơ quan chuyên trách về quản lý dự án đầu tư và cán bộ có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu thực tế cũng cần được nhà nước chú trọng xây dựng. 1.2 Ở cấp vi mô Khi nhà nước đã có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thì các nhà đầu tư cũng cần có các biện pháp để quản lý hoạt động đầu tư ở tầm vi mô một cách có hiệu quả. Trước khi tiến hành các hoạt động đầu tư, chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ các điều kiện về môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội ở địa phương. Nó giúp cho chủ đầu tư có thể khai thác tối đa lợi thế vùng và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Ngoài ra, doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược đầu tư rõ ràng, khoa học để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể gặp phải. Cần rõ ràng trong chuẩn bị về vốn đầu tư, tiến trình đầu tư...Một điều cũng rất quan trọng đó là cần xác định chính xác sự thay đổi của cung cầu trên thị trường về đầu vào và đẩu ra của dự án, đưa ra được dự báo chính xác trong tương lai để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời. 2. Trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư 2.1Công tác chuẩn bị đầu tư Giai đoạn chuẩn bị đầu tư quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Ở giai đoạn này, vấn đề chất lượng, chính xác kết của kết quả nghiên cứu. Tổng chi phí giai đoạn chuẩn bị chiếm từ 0,5- 15% vốn đầu tư chảy vào dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt phần vốn còn lại, tạo cơ sở cho quá trình hành động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, nhanh chóng phát huy hết nguồn lực phục vụ dự kiến. Quá trình chuẩn bị đầu tư gồm 4 bước: nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác chuẩn bị đầu tư được thể hiện qua các mặt như: Với đặc điểm vốn, vật tư lao động cho dự án đầu tư lớn: Thứ nhất là có giải pháp huy tạo vốn và huy động vốn hợp lý. Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho các dựa án đầu tư phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Trong điều kiện mà nhu cầu vốn đầu tư rất lớn như hiện nay việc đa dạng hóa các kênh huy động vốn, hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn là vô cùng cần thiết. Các nguồn huy động vốn cho đầu tư phát triển có thể qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước... Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện, phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên. Thứ hai là thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, gây thất thoát lãng phí nguồn lực. Với các dự án trọng điểm cần tập trung thực hiện dứt điểm, kiên quyết cắt giảm các hạng mục công trình chưa thực sự cần thiết, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Đồng thời có các biện pháp bố trí vốn theo tiến độ của dự án, kế hoạch bố trí vốn phải bám sát những định hướng, chủ trương của chính phủ, các bộ ngành có liên quan. Thứ ba, cần có các giải pháp về tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ lao động một cách hợp lý, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu về nhân lực theo tiến độ đầu tư. Hiện nay vẫn xảy ra tình trạng nhân lực cho các dự án rất dồi dào nhưng số lượng đáp ứng được các yêu cầu của dự án lại rất thấp, phần lớn lao động không được đào tạo bài bản, hoặc không đáp ứng được yêu cầu của dự án. Nhiều dự án mặc dù đã chính thức đầu tư và khởi công nhưng lại không thực hiện được đúng tiến độ do bài toán về lao động. Để tránh tình trạng trên, các dự án khi chuẩn bị đầu tư cần phải xây dựng kế hoạch tuyển dụng , phương án đào tạo lao động kịp thời, để việc đào tạo lao động sát với nhu cầu thực tế. -Với đặc điểm thời kỳ đầu tư kéo dài:Yêu cầu đặt ra là cần tiến hành quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, lập tiến độ thi công xây dựng cụ thể trong từng giai đoạn, đảm bảo tiến độ ngay từ khâu giải phóng mặt bằng. Tiến độ thi công xây dựng công trình phải phù hợp với tiến độ của dự án đã được phê duyệt. Một trong các yếu tố làm cho thời kỳ đầu tư thực tế thường kéo dài hơn nhiều so với dự kiến đó là tình trạng thiếu vốn. Chính vì vậy cần có các giải pháp về bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, bố trí xen kẽ các công việc cần thực hiện nhằm đảm bảo đúng thời gian hoàn thành dự án. - Về đặc điểm đầu tư phát triển phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên kinh tế-xã hội vùng. Trước hết cần nghiên cứu tiềm năng thế mạnh của từng vùng, địa phương, các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc ra quyết định đầu tư. Chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ và lựa chọn địa điểm đầu tư phù hợp nếu không chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro về nhiều mặt cả về tự nhiên lẫn kinh tế xã hội. Do đó, khi lựa chon địa điểm đầu tư cần dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào hệ thống các chỉ tiêu về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội...nhằm khai thác tối đa lợi thế của vùng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. - Với đặc điểm đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Cần có biện pháp tổng thể quản lý rủi ro bao gồm từ việc nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và xây dựng biện pháp phòng và chống rủi ro, điều này rất quan trọng. Xác định đúng nguyên nhân rủi ro là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp để khắc phục. Mặt khác, việc đánh giá xếp thứ tự ưu tiên rủi ro sẽ đưa ra được biện pháp tối ưu xử lý rủi ro, hạn chế thấp nhất được các thiệt hại có thể có do rủi ro gây ra trong suốt vòng đời của dự án. Quá trình thực hiện đầu tư Giai đoạn thực hiện đầu tư: Vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả, 85-95.5% vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời hạn thực hiện đầu tư cũng kéo dai, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Thời gian thực hiện đầu tư phụ thuộc nhiều vào công tác chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, quản lý quá trình việc thưc hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư. Quá trình thực hiện đầu tư gồm: hoàn tất thủ tục đầu tư, thiết kế lập tổng dự toán, xây dựng mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng đào tạo lao động, nghiệm thu, thanh quyết toán, bàn giao kết quả. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển ở giai đoạn hai này được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất cần quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Do ở giai đoạn này vốn nằm khê đọng trong thời gian dài nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ hoạt động đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nhất là trong xây dựng cơ bản. Do yếu kém trong quản lý mà nhiều chủ đầu tư đã làm thất thoát nguồn vốn, khiến cho vốn đầu tư thực tế cao hơn rất nhiều so với dự toán ban đầu..Cần có chính sạch đào tạo nguồn nhân lực, đãi ngộ công nhân và chuyên gia. Điều này càng đảm bảo hơn cho sự thành công của giai đoạn thực hiện đầu tư. Mặt khác, cần rút ngắn thời gian đầu tư, đảm bảo đúng tiến độ thi công công trình. Thời gian hoàn thành dự án càng ngắn thì chi phí và rủi ro càng ít
Luận văn liên quan