Xã hội Việt Nam vào giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, thời kỳ cuối Lê sang Nguyễn, là một xã hội phong kiến, rối ren,
mục nát. Trong hoàn cảnh ấy văn học lại phát triển mạnh mẽ. Có thể
coi đây là thời kỳ huy hoàng của nền văn học nước nhà. Giai đoạn này
đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, là những tài liệu quý có
giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội và cả ngôn ngữ
Việt thời kỳ này. Tiêu biểu hơn tất cả là Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Với ngôn ngữ Việt, chữ viết Việt, cách nói, cách viết của người Việt,
Nguyễn Du đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại cho dân tộc Việt Nam.
Mở đầu của quyển “Từ điển Truyện Kiều” của mình, cụ Đào Duy
Anh đã viết “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam, nếu
Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ
văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền
móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của
Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một
cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng đầy đủ và sâu sắc của nó”.
121 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ pháp của lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ pháp của lớp
từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều
Nguyễn Thị Nguyệt Minh
1
DẪN NHẬP
1 . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xã hội Việt Nam vào giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, thời kỳ cuối Lê sang Nguyễn, là một xã hội phong kiến, rối ren,
mục nát. Trong hoàn cảnh ấy văn học lại phát triển mạnh mẽ. Có thể
coi đây là thời kỳ huy hoàng của nền văn học nước nhà. Giai đoạn này
đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, là những tài liệu quý có
giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội và cả ngôn ngữ
Việt thời kỳ này. Tiêu biểu hơn tất cả là Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Với ngôn ngữ Việt, chữ viết Việt, cách nói, cách viết của người Việt,
Nguyễn Du đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại cho dân tộc Việt Nam.
Mở đầu của quyển “Từ điển Truyện Kiều” của mình, cụ Đào Duy
Anh đã viết “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam, nếu
Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ
văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền
móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của
Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một
cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng đầy đủ và sâu sắc của nó”.
Điều ấy cho thấy Truyện Kiều không chỉ có giá trị văn học vô
cùng to lớn mà nó còn có giá trị đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ Việt
Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Vì ngôn ngữ Truyện Kiều của
Nguyễn Du là “ Đại biểu cho ngôn ngữ văn học của thế kỷ 19” (Hà
Huy Giáp, Truyện Kiều ,1976)
Đọc Truyện Kiều, chúng ta có thể thấy được những điểm giống
nhaụ và khác nhau giữa ngôn ngữ thời đại Nguyễn Du với ngôn ngữ
đương đại. Có những cách diễn đạt thường dùng ngày trước nhưng bây
2
giờ không dùng nữa. Có những cách diễn đạt ngày nay là quen thuộc
nhưng Nguyễn Du chưa biết đến.Đặc biệt chúng ta có thể thấy được
những đóng góp to lớn của tác giả vào sự phát triển của tiếng Việt.
Vì muốn tìm hiểu sâu sắc vấn đề từ ghép thế kỷ XVIII và XIX ,
muốn đóng góp thêm một phần nhỏ vào việc nghiên cứu ngôn ngữ của
Nguyễn Du, chúng tôi đã chọn đề tài “Đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ pháp
của lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều”cho luận văn.
Lý do thứ hai để chúng tôi chọn đề tài này vì tôi yêu Truyện
Kiều. Chúng tôi đã lớn lên bằng lời ru từ những câu Kiều của bà và mẹ.
Chúng tôi đã sống bên cạnh những người nông dân chân chất, thật thà,
những người đã thực sự lưu truyền Kiều vào đời sống nhân dân. Họ đọc
Kiều và hiểu Kiều theo cách của mình. Họ không nhận xét được cái
hay, cái đẹp trong Kiều, cái tài của Nguyễn Du bằng ngôn ngữ khoa học
nhưng họ tìm thấy cách nói, cách nghĩ, cách làm của mình và cả những
bài học nhân nghĩa ở đời trong đó. Chính họ giúp chúng tôi yêu Kiều và
cảm nhận Kiều gần gũi, thương yêu như ca dao, tục ngữ.
Khi nghiên cứu đề tài này, bản thân chúng tôi sẽ được tiếp cận với
nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều
nói riêng và ngôn ngữ học nói chung. Điều ấy giúp tôi tìm hiểu hơn về
Truyện Kiều và củng cố thêm kiến thức về ngôn ngữ học để phục vụ
nhiệm vụ giảng dạy của mình. Đây cũng là lý do để chúng tôi chọn đề
tài này.
2 . PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Hà Huy Giáp đã nhận định “Ngôn ngữ Truyện Kiều đã đạt tới
trình độ điêu luyện, tinh vi, sâu sắc có một không hai trong văn học cổ
3
điển Việt Nam. Chúng ta khẳng định nghệ thuật trong ngôn ngữ Truyện
Kiều là niềm tự hào của tiếng nói Việt Nam”. (Truyện Kiều , 1976)
Đi vào nghiên cứu Truyện Kiều, chỉ riêng ngôn ngữ đã có rất
nhiều vấn đề cần tìm hiểu, cần nghiên cứu. Nhưng do khả năng có hạn
nên chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một khía cạnh nhỏ trong ngôn ngữ
Truyện Kiều: Đặc điểm ngữ nghĩa-ngữ pháp của lớp tư’ ghép đẳng lập
trong Truyện Kiều. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là một lớp từ
trong tác phẩm văn học. Nó mang đặc tính của ngôn ngữ văn chương,
tức một mã phức tạp được cấu tạo nên từ ngôn ngữ tự nhiên. Bất cứ tác
phẩm văn học nào cũng lấy ngôn ngữ dân tộc làm chất liệu. Chính vì
thế ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương vẫn mang đặc trưng của ngôn
ngữ dân tộc đồng thời nó lại có những đặc điểm riêng biệt, mang đặc
trưng của nó. Điểm đặc biệt nhất của ngôn ngữ văn chương là nó mang
dấu ấn ngôn ngữ tác giả. Ngôn ngữ dân tộc khi đi vào tác phẩm Văn
chương, là sản phẩm của tác giả, do tác giả lựa chọn và sử dụng theo
mục đích của mình. Vì vậy ngôn ngữ văn chương là cái đi chệch của
một cái toàn thể có hệ thống so với cái toàn thể của ngôn ngữ chung.
Đề tài này tìm hiểu về lớp từ ghép đẳng lập trong tác phẩm Văn
chương, cụ thể là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Vì vậy, những vấn đề
được tìm hiểu trong đề tài, ngoài những cái cơ bản thuộc về đặc điểm
của tiếng Việt nói chung, sẽ có một số điểm là cái riêng của Nguyễn
Du, cái riêng của tác phẩm, đặc biệt về việc nắm bắt nghĩa của từ và
chức năng ngữ pháp của từ.
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Ngôn ngữ loài người với tư cách là một hệ thống ký hiệu có chức
năng giao tiếp và phản ánh. Trong quá trình phát triển của mình, để đáp
4
ứng nhu cầu cần biểu hiện của thực tế khách quan, nó sẽ không ngừng
phát triển về số lượng từ. Khuynh hướng phát triển tất yếu là phương
thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa, kết hợp chúng với
nhau để sản sinh ra một lớp từ mới mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa
như một từ. Ưu thế của lớp từ này là từ hình thức cũ nhưng lại có thể
chuyển tải một nội dung mới.Và phương thức này đã giúp ngôn ngữ tiết
kiệm tối đa “nguyên liệu” của mình khi tạo ra các sản phẩm trong giao
tiếp. Đối với tiếng Việt, ngôn ngữ tiêu biểu cho loại hình ngôn ngữ đơn
lập, ghép không phải là phương thức duy nhất nhưng là phương thức phổ
biến , có tính sinh sản cao. Lớp từ được hình thành từ phương thức này
đang ngày càng gia tăng về số lượng và cóvị trí quan trọng trong hoạt
động giao tiếp.
Luận văn của chúng tôi không đi vào nghiên cứu về đặc điểm cấu
tạo ngữ nghĩa và ngữ pháp của lớp từ ghép mà chỉ tìm hiểu một mảng cơ
bản của lớp từ này trong Truyện Kiều. Đó là lớp từ được các nhà nghiên
cứu Việt ngữ gọi là từ ghép đẳng lập (hay từ ghép song song, từ ghép
hợp nghĩa, từ ghép láy nghĩa).
Trước khi đi vào khảo sát vấn đề, chúng tôi xin giải thích một số
khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến đề tài.
3.1. Quan niệm về từ:
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi
nghiên cứu bất kỳ một ngôn ngữ nào người ta cũng không thể không làm
việc xác định đơn vị này. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất khó vì trong
lý thuyết ngôn ngữ học đại cương chưa có quan niệm thống nhất về khái
niệm từ, đồng thời ở những loại hình ngôn ngữ khác nhau, ở mỗi ngôn
ngữ khác nhau, từ cũng có những đặc điểm riêng của mình.
5
Vì lẽ đó “Từ” trong tiếng Việt là một vấn đề thuộc lý luận cơ bản
rất quan trọngcho việc nghiên cứu một ngôn ngữ. Toàn bộ hệ thống
ngôn ngữ phụ thuộc vào nó. Nhưng quan niệm về từ nói chung ở các nhà
Việt ngữ học chưa có sự thống nhất. Mỗi người đều muốn xác định một
khái niệm từ hoàn chỉnh trong tiếng việt. Một số người thì chấp nhận
một định nghĩa nào đó về từ trong ngôn ngữ học đại cương rồi căn cứ
vào đó mô tả từ tiếng Việt. Chẳng hạn, Hoàng Tuệ chấp nhận định
nghĩa về từ của A. Meillet: “Từ là kết quả của một sự kết hợp giữa một
ý nghĩa nhất định và một chỉnh thể ngữ âm nhất định, có khả năng giữ
một chức năng ngữ pháp nhất định”. (4) Nguyễn Văn Tu lại chấp nhận
định nghĩa của R.A. Budagôp: “ Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập có
hình thức vật chất và có ý nghĩa tính chất biện chứng về lịch sử”. (5)
Một số người lại tự đưa ra một định nghĩa chung cho từ của tiếng Việt.
Nguyễn Kim Thản viết: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách
khỏi các đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập, là một
khối hòan chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa và chức năng ngữ pháp”. (6) Hồ Lê
định nghĩa từ một cách khác: “ Từ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng định
danh, phi liên kết hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động. Có
khả năng kết hợp tự do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về
ý nghĩa”. (7) Còn Nguyễn Tài Cẩn không đi vào định nghĩa từ mà chỉ
chứng minh cho tính cố định của những kết cấu được gọi là từ.
Như vậy đưa ra một số khái niệm hoàn hảo về từ tiếng Việt lúc
này là một việc vô cùng khó khăn. Chúng tôi cũng chưa đủ khả năng để
bàn luận, nhận xét về những điểm chính xác và chưa chính xác trong
mỗi quan niệm về từ của các tác giả mà chỉ dám đưa ra một khái niệm
về từ mà mình đồng tình. Về cơ bản, chúng tôi đồng tình với định nghĩa
6
sau đây về từ của tác giả Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc
một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất
định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý
nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. (8)
Như vậy cái được gọi là từ phải đảm bảo đủ bốn thành phần:
thành phần ngữ âm, thành phần ngữ pháp, thành phần cấu tạo, thành
phần ý nghĩa. Bốn thành phần này không độc lập đối với nhau mà quy
định lẫn nhau, thống nhất với nhau thành một chỉnh thể.
3.2. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
3.2.1. Xét theo khả năng sản sinh ra các từ cho từ vựng tiếng
Việt có thể định nghĩa: “Yếu tố cấu tạo từ là những yếu tố mà tiếng
Việt sử dụng để cấu taọ ra các từ cho từ vựng”. (9)
Như vậy, trong tiếng Việt, “các yếu tố cấu tạo từ là những hình
thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, tức là những yếu tố không thể phân chia
thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà có ý nghĩa, được dùng để cấu tạo ra
các từ theo các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt”.(10) Các yếu tố
có đặc điểm và chức năng như trên gọi bằng thuật ngữ mang tính quốc
tế : hình vị.
3.2.2. Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động
vào hình vị để cho ta các từ. Tiếng Việt có ba phương thức cấu tạo từ
sau:
3.2.2.1. Từ hoá hình vị Là phương thức tác động vào bản
thân một hình vị, làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa
của từ, làm hình vị thành từ mà không cần có bất cứ sự thay đổi nào vào
hình thức của nó.
7
Vd: Những từ chạy, ăn, nghỉ là những từ hình thành do sự từ hoá
các hình vị chạy, ăn, nghỉ,
3.2.2.2. Ghép hình vị là phương pháp tác động vào hai hoặc
hơn hai hình vị có nghĩa kết hợp chùng với nhau để sản sinh ra
một từ mới mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ.
Ta có sơ đồ: hình vị A , B phương thức ghép hình vị từ A+B
Ví dụ : hoa, hồng ==== > hoa hồng
học, hành ====> học hành
núi , non ====> núi non
3.2.2.3. Láy hình vị Là phương thức tác động vào một hình
vị cơ sở làm xuất hiện một hình láy giống nó toàn bộ hay bộ phận
về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ.
Sơ đồ: hình vị A ===> từ AA’
Vd: mởn ===> mơn mởn
đỏ === > đo đỏ
tím ===> tim tím
3.3. Một vài điểm lưu ý về yếu tố cấu tạo từ
3.3.1. Sau khi nói rõ về phương thức cấu tạo thì ta có thể
hiểu: Hình vị tiếng Việt là những yếu tố nhỏ nhất tự thân nó có
nghĩa và đi vào một trong ba phương thức tạo từ để tạo ra cho các
từ của tiếng Việt.
3.3.2. Vì hình vị tự thân phải có nghĩa nên khi một hình thức
ngữ âm có nhiều nghĩa thì có thể sản sinh ra các từ khác nhau và
vì vậy nó phải được xem là các hình vị khác nhau.
Vd: Aâm tiết bạc với nghĩa gốc trong tiếng Hán là mỏng đi
vào phương thức ghép sản sinh ra các từ bạc ác, bạc tình, bạc
mệnh, đi vào phương thức láy lại cho ta từ bạc bẽo. Cũng âm tiết
8
này trong bạc phau thì lại là chỉ sắc trắng hoặc trong chuông vàng
khánh bạc thì bạc theo đúng nghĩa gốc là chỉ thứ kim loại quý màu
trắng. Như vậy chúng ta có 2 hình vị bạc khác nhau mặc dầu nó
chỉ là một âm tiết.
3.3.3. Do phương thức từ hoá hình vị mà có những trường
hợp cùng một yếu tố vừa là hình vị vừa là từ. Đó là khi ta xét yếu
tố đó ở hai chức năng khác nhau, chức năng cấu tạo từ và chức
năng là đơn vị để tạo câu. Về mặt hình thức vật chất, yếu tố này
chỉ là 1 âm tiết.
Vd: Aâm tiết / hoa/ -> hoa
- Là từ trong “ Hoa đã nở rồi”
- Là hình vị trong: hoa hồng, hoa bưởi,
Tiếng Việt là ngôn ngữ tiêu biểu cho loại hình ngôn ngữ
đơn lập. Trong tiếng Việt ranh giới của một hình vị trùng với ranh
giới của một âm tiết, tức chỗ bắt đầu và kết thúc của một âm tiết
cũng là chỗ bắt đầu và kết thúc của của một hình vị.
3.3.4 Trong tiếng Việt hiện nay, chúng ta phải chấp nhận
một số hình vị trong một số từ nhất định đã bị mờ nghĩa hoặc mất
nghĩa ( không tính các hình vị láy trong phương thức láy). Lý giải
vấn đề này có thể cho rằng bản thân các hình vị này sau khi sản
sinh ra theo nguyên tắc chung, nó có nghĩa tự thân, tức là nó có
thể đi vào các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt để có thể sản
sinh ra từ. Nhưng trong quá trình phát triển của ngôn ngữ, bản
thân nó bị biến đổi đi do chịu tác động của các quy tắc khác
không còn giữ nguyên dạng đầu tiên nữa, hoặc nó đã bị các từ
khác lấn át thay thế, chính vì vậy mà nó mờ nghĩa và dần đi đến
9
mất nghĩa. Những hình vị này hiện nay đã mất năng lực cấu tạo
từ, chúng chỉ còn sót lại trong một số từ mà thôi.
Vd: bươu, hấu, búa, núc trong các từ ốc bươu, dưa hấu, chợ búa,
bếp núc
3 .4 Phân chia hình vị tiếng Việt
Hình vị trong tiếng Việt có chức năng trước hết là chức
năng cấu tạo từ và nghĩa của hình vị đóng vai trò quan trọng trong
chức năng này. Cho nên khả năng cấu tạo từ của hình vị, xét về
mặt ngữ nghĩa, phải được xem như là tiêu chí hàng đầu để phân
loại hình vị. Hiện nay có ba xu hướng cơ bản để phân chia hình vị
tiếng Việt
3.4.1. Xu hướng phân chia hình vị xét theo tiêu chí khả năng cấu
tạo từ
Có hai loại hình hình vị:
+ Loại thứ nhất Là những hình vị có khả năng cấu tạo từ
thấp tức là số lượng từ được cấu tạo với chúng tương đối ít
+ Loại thứ hai Là những hình vị có khả năng cấu tạo từ cao
tức là số lượng được cấu tạo với nó là nhiều hơn và nó có thể đi
vào nhiều phương thức nhiều kiểu cấu tạo hơn.
3.4.2. Xu hướng phân chia hình vị thành hình vị thực và hình vị
hư
+ Hình vị thực Là những hình vị mà ý nghĩa của chúng liên
hệ với sự vật hiện tượng có thể hình dung hay nhận thức được một
cách cụ thể.
Vd: trời, bể, nước, cây, nhà, thở, chạy, xinh, tốt
10
+ Hình vị hư Là những hình vị mà ý nghĩa thường chỉ quan
hệ hoặc chỉ tình thái.
Vd: đã, đang, sẽ, ư, à, nhỉ
3.4.3. Xu hướng thứ ba là phân chia hình vị tiếng Việt thành hình
vị độc lập và hình vị không độc lập
+ Hình vị độc lập Là những hình vị vừa là hình vị vừa có
thể đi vào phương thức từ hoá hình vị để thành từ, tức là nó có thể hoạt
động độc lập như một từ.
Vd: nhà, cửa, chạy, nhảy, trắng, đen
+ Hình vị không độc lập Là những hình vị bản thân nó có
nghĩa nhưng nó chỉ có thể để cấu tạo từ, tức nó chỉ tồn tại và hoạt động
khi đi cùng một hình vị khác trong từ.ø
Hình vị trong luận văn của chúng tôi sẽ được gọi tên theo cách
phân chia này.
3.5. Phân chia các kiểu từ về mặt cấu tạo
Việc phân chia từ về mặt cấu tạo hiện nay cũng chưa có sự thống
nhất giữa các nhà Việt ngữ học. Song phần lớn các tác giả đều căn cứ
vào số lượng hình vị chia thành từ đơn và từ phức hợp (kép). Từ đơn là
từ một hình vị, từ phức hợp là từ do hai hình vị trở lên tổ hợp lại.
Các từ phức hợp lại được chia theo phương thức cấu tạo thành từ
láy và từ ghép. Căn cứ vào quan hệ cú pháp giữa các thành tố, từ ghép
lại được chia thành từ ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Sau đây là sơ
đồ phân chia từ tiếng Việt theo phương thức cấu tạo:
11
3.5.1. Từ ghép đẳng lập:
Từ ghép đẳng lập là loại từ ghép được cấu tạo từ hai hình vị trở
lên. Hai hình vị gắn bó với nhau theo quan hệ song song, bình đẳng,
không có hình vị chính, không có hình vị phụ.
Có thể vì điều này mà các nhà nghiên cứu còn gọi nó là từ ghép
song song, từ ghép hợp nghĩa, láy nghĩa.
Cho dù có những tên gọi khác nhau, một số vấn đề nghiên cứu về
nó chưa có sự thống nhất và cách phân chia các tiểu loại nhỏ hơn trong
bản thân nó có những cách khác nhau, nhưng về cơ bản các nhà Việt
ngữ học đều có chung quan điểm về những đặc điểm cơ bản của loại từ
này như sau:
- * Từ ghép đẳng lập được cấu tạo bởi hai hình vị có nghĩa trở lên.
- Loại từ này bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở những thành tố
trực tiếp đồng loại với nhau. Điều đó bắt buộc các thành tố trong từ
ghép đẳng lập phải cùng tính chất.
+ Thành tố đứng trước chỉ sự vật, thì thành tố đứng sau cũng chỉ sự vật
Vd: nhà – cửa => nhà cửa, gà – vịt => gà vịt
+ Thành tố đứng trước chỉ hành động, đặc điểm thì thành tố đứng sau
cũng chỉ hành động, đặc điểm
Từ tiếng Việt
Từ đơn
Từ phức hợp
Từ đơn âm
Từ đa âm
Từ láy
Từ ghép
Láy bộ phận
Láy hoàn toàn
Ghép chính phụ
Ghép đẳng lập
12
Vd: chạy – nhảy => chạy nhảy, tốt – xấu => tốt xấu
- Các thành tố có quan hệ bình đẳng, song song nhau trong cú pháp.
3.5.2. Xét về quan hệ cú pháp thì loại từ ghép này chỉ có một
kiểu quan hệ nhưng nếu xét trên góc độ mối quan hệ về ngữ nghĩa
giữa các thành tố thì chúng tôi nhận thấy có ba kiểu quan hệ sau:
a. Quan hệ hợp nghĩa: Gồm hai thành tố có nghĩa khác nhau
nhưng cùng trường