Đề tài Đặc trưng và tác động kinh tế tri thức đến hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh

Kinh tế tri thức (hay kinh tế kiến thức) là một giai đoạn phát triển mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế công nghiệp. Sự nổi lên của nền kinh tế mới này được khẳng định với những chứng cớ đáng kể như sự dịch chuyển của khu vực chế tạo sang khu vực dịch vụ với các đặc điểm mới – nhiều kiến thức, sự gia tăng của các tài sản phi hình ( vô hình) và vốn trí tuệ, Đặc điểm nổi bật nhất của KTTT ( kiến thức) đã trở thành kinh tế hàng đầu của tăng trưởng kinh tế, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền – vốn và lao động. Một đặc điểm lớn khác của KTTT là vai trò đặc biệt của kiến thức ngầm ( đặc biệt là bí quyết và tay nghề) – công cụ để lựa chọn và khai thác thông tin ( kiến thức đã điển chê hóa) ngày nay đã trở thành dễ có hơn và rẻ hơn rất nhiều nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đầy sức mạnh. Trong khoảng mười năm gần đây, những nghiên cứu về KTTT đã tăng rất nhanh và hiện đang phát triển rất mạnh. Song chúng ta không quên rằng lĩnh vực nghiên cứu này đã có một lịch sử năm chục năm, bắt đầu từ những nghiên cứu về công nghiệp kiến thức, xã hội hậu công nghiệp và kinh tế thông tin vào những năm 1960 và 1970, lúc đầu ở Mỹ, sau đó đến các nước công nghiệp khác, rồi các nước công nghiệp mới và một số nước đang phát triển.

pdf23 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc trưng và tác động kinh tế tri thức đến hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỚP: HQ5 – GE01 NHÓM TÁC GIẢ: 8 ĐỀ TÀI: ĐẶC TRƯNG VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ TRI THỨC ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TỔ CHỨC KINH DOANH BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN QUẢN TRỊ HỌC TP.HCM tháng 12 năm 2017 2 ❖ CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI _._._._._._._ Nhóm trưởng Nguyễn Thị Ngọc Anh Thành viên Nguyễn Vũ Khánh An Đặng Thanh Bích Dung Nguyễn Ngọc Bích Hằng Võ Thị Mỹ Hân ❖ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT _._._._._._._ APEC: Asia Pacific Economic Coperation – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. ASEAN: Association of Southeast Asian Nation – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. OECD: Organization For Economic Cooperation and Development – Tổ chức hợp tác và phát triển Kinh tế. WB: World Bank – Ngân hàng Thế Giới. UNESCO: United Nation Educational, Scientifical and Cutural Organization – Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa của LHQ. KTTT: Kinh tế tri thức. EU: European Union – Liên minh Châu Âu. 3 MỤC LỤC: LỜI NÓI ĐẦU: ----------------------------------------------------------------------------------- 5 CHƯƠNG 1: KINH TẾ TRI THỨC ---------------------------------------------------------- 6 1.1. Khái quát về sự xuất hiện của KTTT và nghiên cứu ban đầu về kinh tế tri thức. ----------------------------------------------------------------------------------------- 6 1.2. Khái niệm về KTTT. ----------------------------------------------------------------- 6 1.3. Đặc trưng chủ yếu của nền KTTT: ----------------------------------------------- 7 1.3.1. Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế ----------------- 7 1.3.2. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh theo hướng tăng nhanh giá trị gia tăng. -------------------------------------------------------------- 8 1.3.3. Tốc độ đổi mới nhanh, sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất đặc biệt quan trọng. ----------------------------------------------------------------------- 9 1.3.4. Công nghệ thông tin và viễn thông được ứng dụng rộng rãi và ngày càng sâu trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. ------------------------------------- 11 1.3.5. Đặc tính, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức thay đổi căn bản. ------------------------------------------------------------------ 12 CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG KINH TẾ TRI THỨC ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TỔ CHỨC KINH DOANH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN. -------------------------- 15 2.1. Khái niệm quản trị tổ chức kinh doanh --------------------------------------- 15 2.2. Các hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh. ---------------------------------- 15 2.3. Tác động của nền Kinh tế tri thức đến các hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh; nguồn nhân lực và văn hóa thời đại. ----------------------------------- 15 2.3.1. Hoạch định trong tổ chức kinh doanh.------------------------------------ 15 2.3.2. Tổ chức trong tổ chức kinh doanh. ---------------------------------------- 15 2.3.3. Quản trị nhân sự trong tổ chức kinh doanh. ---------------------------- 16 2.3.4. Lãnh đạo trong tổ chức kinh doanh. -------------------------------------- 16 2.3.5. Kiểm tra trong tổ chức kinh doanh. --------------------------------------- 16 2.3.6. Cơ cấu lao động xã hội – sự phát triển nhanh của công nhân tri thức. 17 2.3.7. Văn hóa. ------------------------------------------------------------------------- 18 CHƯƠNG 3: XU THẾ CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ TRI THỨC ( PHẦN MỞ RỘNG) ------------------------------------------------------------------------------------- 19 4 3.1. Sự chuyển biến sang nền Kinh tế tri thức – một xu hướng lớn mang tính phổ biến. ------------------------------------------------------------------------------------- 19 3.2. Dự báo khái quát về xu thế phát triển của nền Kinh tế tri thức trong những giai đoạn sắp tới. ------------------------------------------------------------------ 19 3.3. Thời cơ, thuận lợi, khó khăn đặt ra cho các nước đang phát triển trong quá trình tiếp cận và chuyển sang Kinh tế tri thức --------------------------------- 20 LỜI KẾT ---------------------------------------------------------------------------------------- 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO -------------------------------------------------------------------- 23 5 LỜI MỞ ĐẦU: Kinh tế tri thức (hay kinh tế kiến thức) là một giai đoạn phát triển mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế công nghiệp. Sự nổi lên của nền kinh tế mới này được khẳng định với những chứng cớ đáng kể như sự dịch chuyển của khu vực chế tạo sang khu vực dịch vụ với các đặc điểm mới – nhiều kiến thức, sự gia tăng của các tài sản phi hình ( vô hình) và vốn trí tuệ, Đặc điểm nổi bật nhất của KTTT ( kiến thức) đã trở thành kinh tế hàng đầu của tăng trưởng kinh tế, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền – vốn và lao động. Một đặc điểm lớn khác của KTTT là vai trò đặc biệt của kiến thức ngầm ( đặc biệt là bí quyết và tay nghề) – công cụ để lựa chọn và khai thác thông tin ( kiến thức đã điển chê hóa) ngày nay đã trở thành dễ có hơn và rẻ hơn rất nhiều nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đầy sức mạnh. Trong khoảng mười năm gần đây, những nghiên cứu về KTTT đã tăng rất nhanh và hiện đang phát triển rất mạnh. Song chúng ta không quên rằng lĩnh vực nghiên cứu này đã có một lịch sử năm chục năm, bắt đầu từ những nghiên cứu về công nghiệp kiến thức, xã hội hậu công nghiệp và kinh tế thông tin vào những năm 1960 và 1970, lúc đầu ở Mỹ, sau đó đến các nước công nghiệp khác, rồi các nước công nghiệp mới và một số nước đang phát triển. Bài tiểu luận này giới thiệu một cách khái quát các khái niệm cơ bản xuất phát, sự xuất hiện của KTTT và hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh. Tiểu luận tập trung khai thác vấn đề đặc trưng và tác động của nền KTTT đến hoạt động quản trị tổ chức kinh doanh. Nghiên cứu về kinh tế tri thức là một lĩnh vực hiện còn đang phát triển. Trong những trường hợp, chúng tôi có liệt kê ra các tài liệu để người đọc tiện theo dõi. Một số tài liệu chúng tôi không có nguyên bản mà biết được qua một số tài liệu khác, khi đó để cho rõ ràng, chúng tôi ghi “ dẫn theo” 6 CHƯƠNG 1: KINH TẾ TRI THỨC 1.1. Khái quát về sự xuất hiện của KTTT và nghiên cứu ban đầu về kinh tế tri thức. Sự phát triển của kinh tế trong lịch sử của nhân loại đã trải qua những giai đoạn khác nhau. Trước hết là kinh tế săn bắn và hái lượm tồn tại trong hàng nghìn năm. Tiếp đó là kinh tế nông nghiệp kéo dài khoảng mười nghìn năm. Rồi đến kinh tế công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu nửa sau thế kỉ XVIII. Sau đó là Kinh tế tri thức, lúc đầu thường gọi là kinh tế thông tin, đã ra đời lúc đầu ở Mỹ vào đầu những năm 1970 và rồi ở nhiều nước công nghiệp phát triển và ngày nay cả các nước công nghiệp mới (NICs). KTTT theo một số dự báo, đối với nước Mỹ, có thể sẽ kết thúc vào khoảng năm 2020 để nhường chỗ cho một nền kỉnh tế mới khác – kinh tế sinh học. Những nghiên cứu về KTTT đã có một lịch sử hơn 40 năm bắt đầu từ công trình của Fritz Machlup: “ The production and distribution of knowledge in the United States”( Sản xuất và phân phối tri thức ở Mỹ) xuất bản năm 1962. Công trình này lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Công nghiệp tri thức” ( knowledge industry) và lưu ý mọi người về tầm quan trọng và đặc biệt là sự tăng trưởng nhanh chóng của khu vực kinh tế này. Đặc biệt, một báo cáo của Tổ Chức hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1996 đã vạch ra khung của vấn đề của KTTT có thể sử dụng làm cơ sở ban đầu cho việc tiếp tục nghiên cứu về sự phát triển của nền kinh tế này. Báo cáo viết: “ Từ “ Kinh tế tri thức” đã xuất hiện từ sự nhận thức về vai trò của tri thức và công nghệ trong tăng trưởng kinh tế. Đành rằng tri thức luôn luôn là một yếu tố trung tâm của phát triển kinh tế, song vấn đề là sự phụ thuộc của kinh tế một cách chặt chẽ vào sản xuất, truyền bá và sử dụng tri thức ngày nay đã được đặt lên trên hết.” KTTT như một lực lượng sản xuất, chắc chắn sẽ có tác động mạnh mẽ đến kiến trúc thượng tầng xã hội, đến quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, và sẽ dẫn đến những biến động to lớn trong xã hội loài người. 1.2. Khái niệm về KTTT. Khái niệm KTTT ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPCD nêu ra "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống". Bộ Thương mại và Công nghiệp nước Anh ( năm 1998) cho rằng một nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức là một nền kinh tế mà việc sản sinh và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải. Theo GS.VS Đặng Hữu, KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vao trò quyế định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. 7 Tại hội thảo, Jean – Eric Aubert, chuyên gia hàng đầu của WB, nói cụ thể hơn: “Phải phân biệt đó không phải là nền kinh tế dựa vào công nghệ và viễn thông! Kinh tế tri thức là đặt tri thức, sáng tạo và các chính sách liên quan đến chúng vào trọng tâm của chiến lược phát triển cho tất cả các nước ở nhiều mức độ phát triển khác nhau”. Có thể nói, kinh tế tri thức là một giai đoạn phát triển mới của các nền kinh tế sau kinh tế công nghiệp với vai trò của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu của sản xuất, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động. Đây chính là cốt lõi của kinh tế tri thức. Khác với loại hình kinh tế trước đây, loại hình mà lấy công nghiệp truyền thống làm nền tảng, lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên thiếu thốn và ít ỏi làm chỗ dựa để phát triển sản xuất, KTTT lấy công nghệ cao làm lực lượng sản xuất, lấy trí lực – nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu, lấy công nghệ thông tin làm nền tảng để phát triển.(hình 1.5) Vậy KTTT là gì? KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. 1.3. Đặc trưng chủ yếu của nền KTTT: Peter Drucker – một trong những người đi tiên phong nghiên cứu về tri thức và xã hội tri thức, đã nói một cách khái quát về xã hội tri thức, nền KTTT như sau: "Ngày mai sẽ đến gần hơn là chúng ta nghĩ. Trong thế giới các nước phát triển, xã hội mới này sẽ quan trọng rất nhiều so với bất kỳ một nền kinh tế mới nào. Xã hội đó rất khác với xã hội cuối thế kỷ XX và cũng khác với điều mà phần lớn chúng ta nghĩ. Rất nhiều cảnh tượng của xã hội đó từ trước tới giờ chưa từng thấy, nhưng hầu hết chúng đã có sẵn và sẽ trỗi dậy nhanh chóng” 1.3.1. Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế 8 Cái khác biệt cơ bản nhất của KTTT so với kinh tế công nghiệp là tri thức trở thành hình thức cơ bản nhất của vốn. Trong nền KTTT, của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu. Sự tạo ra của cải, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu là nhờ sử dụng tri thức mới, công nghệ mới. Hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức là thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức mới trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Giá trị sản xuất được tạo ra nhiều nhất là từ tri thức. Khi sử dụng nhiều công nghệ mới, tri thức quản lý mới, một hecta đất nông nghiệp có thể cho giá trị gấp nhiều lần mà chi phí vật chất không tăng, như thế giá trị gia tăng chủ yếu là do tri thức tạo ra; khi ngành cơ khí truyền thống chuyển lên tự động hoá, sử dụng CAD, CAM, CNC, quang điện tử... thì ngành đó trở thành ngành Kinh tế tri thức... Các ngành sản xuất, dịch vụ sử dụng thương mại điện tử để mở rộng thị trường (may đo qua mạng, bán hàng qua mạng...) cũng trở thành ngành kinh tế tri thức. Còn trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghiệp phần mềm thì rõ ràng giá trị tạo ra chủ yếu là do tri thức, các chi phí vật chất không đáng kể, đó thực sự là những ngành kinh tế dựa vào tri thức. Trong các ngành kiến trúc, xây dựng, việc sử dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý để thay thế cho việc khảo sát thủ công, sử dụng công nghệ mô phỏng, tự động hoá trong thiết kế, sử dụng vật liệu mới, các thiết bị tự động hoá trong thi công cũng tạo ra giá trị gia tăng cao, giảm tiêu hao vật liệu, giảm hàm lượng lao động cơ bắp, các ngành đó đi theo hướng KTTT. Nền sản xuất đại cơ khí từng bước chuyển sang tự động hoá hoàn toàn; con người dần dần đứng ra ngoài quá trình sản xuất để làm chức năng chủ yếu là kiểm soát các quá trình ấy và sáng tạo ra cái mới có chất lượng hơn, hiệu quả hơn. Có nhà khoa học cho rằng loài người đang từ "xã hội có phân công lao động" chuyển sang "xã hội không còn phân công lao động", trong đó mọi công việc sản xuất đều do các hệ thống tự động hoá đảm nhận, con người chỉ làm công việc kiểm soát, điều khiển và sáng tạo cái mới; cũng có người cho rằng loài người đang từ "xã hội nguyên tử" tiến sang "xã hội bit" ( xã hội nguyên tử- xã hội dựa trên vật chất, xã hội bit- xã hội dựa trên thông tin). Trong nền KTTT, giá trị gia tăng được tạo ra chủ yếu là do những yếu tố vô hình như sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, dịch vụ tài chính, quản trị kinh doanh... Giá trị gia tăng do các yếu tố đầu vào là nguyên liệu, năng lượng ngày càng giảm đi. Hiện nay, giá trị của các tài sản vật chất của các công ty ở Mỹ và châu Âu nói chung chỉ bằng 25% tổng giá trị của công ty. Phần lớn giá trị của các công ty này phản ánh các yếu tố vô hình kể trên. Tỷ lệ giá trị do tri thức tạo ra so với tổng GDP là một chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức. Năm 2000, tính chung cho các nước OECD, giá trị do tri thức chiếm hơn 50% GDP. 1.3.2. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh theo hướng tăng nhanh giá trị gia tăng. Theo đà phát triển của khoa học và công nghệ, cơ cấu kinh tế trên thế giới đã thay đổi to lớn. Trong thế kỷ XX, ngành nông nghiệp vốn đã từng là ngành ngự trị từ 10.000 năm trước đó, đã giảm đi nhanh chóng về tỷ trọng trong GDP. Về khối lượng, sản xuất nông nghiệp đã tăng ít nhất 4-5 lần so với trước chiến tranh thế giới thứ 9 nhất; nhưng năm 1913 tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp trong thương mại thế giới chiếm 70%, đến nay chỉ còn 17%. Công nghiệp chế biến cũng trên con đường đi xuống như vậy. Từ chiến tranh thế giới thứ hai, sản phẩm công nghiệp chế biến ở các nước phát triển đã tăng ít nhất gấp ba lần, nhưng giá cả giảm đi nhanh chóng, trong lúc giá cả của những sản phẩm tri thức – giáo dục và chăm sóc sức khoẻ đã tăng gấp ba (có xét đến lạm phát). Trong 50 năm qua, sức mua tương đối của sản phẩm chế biến so với sản phẩm tri thức đã giảm chỉ còn 1/5 – 1/6. Số lao động trong các ngành công nghiệp chế biến ở Mỹ những năm 50 thế kỷ XX chiếm 35% lực lượng lao động, nay chỉ còn khoảng một nửa. Một đặc trưng cơ bản của nền Kinh tế tri thức là sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ...; mặt khác, do quá trình sản xuất hàng hoá trực tiếp được tự động hoá ở trình độ ngày càng cao, cho nên số người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy giảm đi rất nhiều, trong khi đó số người làm việc ở văn phòng tăng lên (thực chất các văn phòng này là những trung tâm, đầu mối xử lý, phân tích thông tin và biến những thông tin đó thành yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh). Tỷ lệ giá trị gia tăng công nghiệp công nghệ cao trong công nghiệp chế tạo đang tăng nhanh. Hiện nay, ở Mỹ và nhiều nước phát triển, tỷ lệ đó đã đạt khoảng 25-30%. Việc làm và thu nhập do khu vực công nghệ cao tạo ra đang tăng nhanh. Việc làm trong các ngành sản xuất và phân phối hàng hoá giảm đi rất nhiều và được thay thế bằng việc làm trong các văn phòng xử lý và phân phối thông tin được trang bị rất hiện đại. Từ 1980 đến 1998, riêng ở Mỹ, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã làm mất đi 44 triệu việc làm, nhưng đồng thời lại tạo ra 73 triệu chỗ làm việc mới, tức là đã tăng thêm 29 triệu việc làm. Ở nước Mỹ hiện nay, 93 triệu người lao động (80% lực lượng lao động) không phải giành thời gian để làm ra các vật phẩm, mà họ chuyển sang làm việc ở các văn phòng xử lý thông tin, cung cấp các dịch vụ cho người dân. Như vậy, nền kinh tế tri thức cũng có thể gọi là nền Kinh tế văn phòng, hay nền Kinh tế công nghệ cao. Xem xét cơ cấu kinh tế theo ba khu vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) thì xu thế phát triển Kinh tế tri thức được thể hiện qua sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng tăng nhanh dịch vụ, giảm nông nghiệp. Trong mấy thập kỷ qua, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dịch chuyển như sau: Tỷ lệ trọng của các khu vực trong GDP. 1965 1980 1999 2003 Tỷ lệ nông nghiệp (%) 10 7 5 4 Tỷ lệ công nghiệp (%) 40 37 34 33 Tỷ lệ dịch vụ (%) 50 56 61 63 Nguồn: World Bank, World Development Report 2003- 2004. Riêng đối với nhóm nước thu nhập cao thì tỷ lệ tương ứng của khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ năm 1999 là 2%, 34% và 64%. Do đó, cũng có người cho rằng nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dịch vụ. 1.3.3. Tốc độ đổi mới nhanh, sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất đặc biệt quan trọng. 10 Trong nền KTTT, tốc độ hao mòn vô hình tăng lên theo xu hướng ngày càng nhanh, cái có giá trị nhất là cái chưa biết, cái đã biết, đã được sử dụng thì mất dần giá trị. Tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra cái mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế. Vòng đời công nghệ, sản phẩm từ lúc mới nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn. Trong nền Kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ưu hoá, tức là hoàn thiện cái đã có, để giảm chi phí sản xuất, còn trong kinh tế tri thức thì quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Sự triển kinh tế là do sự không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Do đó, nền kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động rất nhanh, “làm việc và kinh doanh theo tốc độ của tư duy”. Các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới (ở nước Mỹ hiện nay, mỗi năm có khoảng 40% doanh nghiệp đổi mới công nghệ); số doanh nghiệp cũ bị phá sản rất nhiều nhưng số doanh nghiệp mới dựa vào sáng chế, công nghệ mới, sản phẩm mới, nhất là doanh nghiệp khoa học hay doanh nghiệp sáng tạo tăng lên rất nhanh; số chỗ làm việc cũ mất đi nhiều, nhưng số chỗ làm việc mới được tạo ra còn nhiều hơn; tổng số chỗ làm việc không ngừng tăng lên. Tại Mỹ, từ năm 1993 đến năm 1996, gần 40 vạn doanh nghiệp vừa và nhỏ có tốc độ phát triển trên 20% mỗi năm (gọi là gazelle) đã tạo ra hơn 70% việc làm mới. Các gazelle sẽ làm chủ nền kinh tế mới. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất; đúng như K. Marx đã dự báo: “Phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”. Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, tăng trưởng và việc làm. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất công nghệ (cũng có thể gọi là doanh nghiệp tri thức) phát triển rất nhanh. Trong các doanh nghiệp đó, khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Khu công nghệ cao là nơi biến các tri thức mới, các phát kiến khoa học mới thành công ngh
Luận văn liên quan