Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hóa chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.
Trong tác phẩm “Nên học sử ta”, viết vào đầu năm 1942, Bác đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi.”. Ngay từ năm 1941, trong bài “Kính cáo đồng bào”, Bác viết: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết. Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại. Cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm.”. Cách mạng Tháng Tám là một kết quả rực rỡ của tư tưởng đó.
Không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó kẻ xâm lược mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Còn những người có tâm huyết với nước với dân thì được thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến.
Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược. Nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp.
Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nét đặc sắc, nổi bật là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá ứng xử từ cổ, kim, Đông, Tây với sự đậm đà, sâu sắc truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam. Điều đó hội tụ trong con người Hồ Chí Minh tạo nên phong cách, lối ứng xử đậm chất văn hoá, nhân văn, nhân đạo cách mạng để thu phục, cảm hoá, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan và phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Có thể khái quát phương pháp đó trên những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào; dùng những lời lẽ chân thành giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng.
Thứ hai, khoan dung, độ lượng, vị tha, hướng mọi người vào mục đích chung cao cả.
Thứ ba, quan tâm, chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân; chú trọng nêu gương để thực hành đoàn kết.
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3290 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề đại đoàn kết dân tộc ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hóa chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.
Trong tác phẩm “Nên học sử ta”, viết vào đầu năm 1942, Bác đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”. Ngay từ năm 1941, trong bài “Kính cáo đồng bào”, Bác viết: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết. Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại. Cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm...”. Cách mạng Tháng Tám là một kết quả rực rỡ của tư tưởng đó.
Không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó kẻ xâm lược mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Còn những người có tâm huyết với nước với dân thì được thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến.
Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược. Nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp...
Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nét đặc sắc, nổi bật là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá ứng xử từ cổ, kim, Đông, Tây với sự đậm đà, sâu sắc truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam. Điều đó hội tụ trong con người Hồ Chí Minh tạo nên phong cách, lối ứng xử đậm chất văn hoá, nhân văn, nhân đạo cách mạng để thu phục, cảm hoá, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan và phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Có thể khái quát phương pháp đó trên những nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào; dùng những lời lẽ chân thành giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng.
Thứ hai, khoan dung, độ lượng, vị tha, hướng mọi người vào mục đích chung cao cả.
Thứ ba, quan tâm, chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân; chú trọng nêu gương để thực hành đoàn kết.
Tầm quan trọng của Đại đoàn kết thì ai cũng thấy rõ nhưng trong tình hình ngày nay thì đây là một vấn đề rất quan tâm của Đảng và nhà nước ta để chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc.
Chính vì lý do này nên tôi chọn đề tài “Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề Đại đoàn kết dân tộc ngày nay”.
KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
PHẦN I:PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN II:NỘI DUNG
1.Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
2.Những phương pháp của Hồ Chí Minh về “Đại đoàn kết dân tộc và vấn đề đoàn kết ngày nay”.
3.Nghiên cứu vấn đề đại đoàn kết dân tộc ngày nay.
4.Nghiên cứu tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh ngày nay.Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi.
PHẦN III:KẾT LUẬN.
PHẦN II:NỘI DUNG
1.Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
- Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hóa tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là truyền thống của lịch sử. Đó là nền tảng văn hóa tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển.
- Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư tưởng độc lập, tự do.
- Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.
- Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do.
-Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước của dân tộc, do dântộcvàvìdântộc. - Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945 - 1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ.
-Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt.
-Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước.
-Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
-Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam”.
-Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
3.Những phương pháp của Hồ Chí Minh về “Đại đoàn kết dân tộc và vấn đề đoàn kết ngày nay”.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan và phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Có thể khái quát phương pháp đó trên những nội dung cơ bản sau đây: a.Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào; dùng những lời lẽ chân thành giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng. -Thấm nhuần truyền thống, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự tôn trọng, thương yêu mọi người. Theo Người cách mạng là việc của toàn thể dân chúng chứ không phải là việc riêng của một hoặc hai người. Song, để cảm hoá, thuyết phục được quần chúng nhân dân đi theo cách mạng thì trước hết phải tin tưởng, tôn trọng, thương yêu nhân dân. Không có lòng thương người, tôn trọng con người thì khó có thể thực hành đại đoàn kết. Khi nói chuyện với đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang ngày 23/11/1945, Người căn dặn: “Tôi nhờ anh chị em về nói lại với đồng bào trên ấy biết rằng, đồng bào Kinh và Chính phủ rất thương mến đồng bào Mán, Thổ, coi như anh chị em trong một nhà”1. Trong bức thư gửi đồng bào các tỉnh vùng Đông Bắc ngày 20/3/1946, Người bày tỏ sự chân thành: “Tuy hiện nay tôi ở Hà Nội, xa cách với đồng bào nhưng không bao giờ tôi quên các đồng bào. Tôi luôn nhớ đến lòng yêu mến và sự giúp đỡ của các đồng bào trong những tháng ngày tôiởThượngDu” -Đối với đồng bào theo các tôn giáo, Hồ Chí Minh cũng luôn tôn trọng, tin tưởng và quan tâm chân thành. Trong thư gửi linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam ngày 23/12/1945, Người viết: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm trước, cũng ngày hôm nay, một vị thánh nhân là đức chúa Jêsu ra đời. Suốt đời hi sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ, từ ngày giáng sinh đến nay đã gần 2000 năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà toả ra đã khắp, thấm vào đã sâu” -Cùng với sự tôn trọng,thương yêu nhân dân, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng thực hiện đoàn kết. Với vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và sự hiểu biết sâu sắc đối tượng cần đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn sử dụng những ngôn từ đơn giản, mộc mạc, mang đậm hình ảnh trực quan để tuyên truyền. Trong bài thơ “Hòn đá”, in trên báo “Độc lập” ngày 21/4/1942, Người đã dùng hình ảnh: “Hòn đá to, hòn đá nặng” để ví với nhiệm vụ cách mạng rất nặng nề, gian khổ, ít người tham gia thì không giải quyết được, nhưng nếu “Biết đồng sức, biết đồng lòng” thì “Việc gì khó, làm cũng xong”.. Khi nói chuyện với đồng bào tỉnh Yên Bái, ngày 25/9/1958, Người nói: “Ví dụ, 10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ thù nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó. Đó là điểm thứ nhất tại sao phải đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc”4. Sự tôn trọng, thương yêu, tin tưởng đồng bào và nghệ thuật trong cách tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân của Hồ Chí Minh đã quy tụ, cảm hoá, đoàn kết được mọi đối tượng khác nhau đi theo Đảng để làm cách mạng. b.Thứ hai, khoan dung, độ lượng,vị tha,hướng mọi người vào mục đích chungcaocả. -Đức khoan dung, sự độ lượng và lòng vị tha là những đức tính, phẩm chất trong con người Hồ Chí Minh và đây cũng là cách để Người thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh làm người phải biết khoan dung, độ lượng bởi “Không ai hoàn toàn tránh khỏi sai lầm”, phải biết chấp nhận và tha thứ những khuyết điểm, sai lầm của người khác. Người quan niệm, trong mỗi người đều có phần thiện và ác, nhưng “cái ác” trong mỗi người cũng không phải là thứ bất biến. Người cho rằng: Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm. Quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi người không phải luôn giống nhau. Người cũng chỉ rõ những trở ngại, cản trở sự đoàn kết dân tộc là sự nhìn nhận, đánh giá phiến diện, thành kiến với con người, thấy cái tốt ở người thì ít, mà thấy cái xấu, khuyết điểm ở họ thì nhiều. Với tấm lòng bao dung, độ lượng, Người chỉ rõ: “Đối với những người có thói hư, tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp đỡ họ bằng cách làm cho phần thiện trong con người nẩy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” -Với những người phạm sai lầm, khuyết điểm Hồ Chí minh cũng lấy sự khoan dung, độ lượng để cảm hoá, giáo dục. Người cho rằng: đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Ngay cả với những nguỵ binh, hàng binh, vì lý do nào đó mà lầm đường theo giặc, Hồ Chí Minh cũng rộng lòng tha thứ, khoan hồng. Người chỉ rõ: “Nguỵ binh cũng là con dân nước Việt, nhưng dại mà đi lầm đường, cho nên Tôi và hính phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi mà quay về với đại gia đình kháng chiến”.
- Với lòng độ lượng, khoan dung của Hồ Chí Minh và chính phủ ta, nhiều nguỵ binh đã quay trở về với cách mạng, nhận rõ sai lầm của mình, tự giác cải tà, quy chính, nguyện đi theo kháng chiến. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với kẻ lầm đường, lạc lối lòng Hồ Chủ Tịch còn rộng hơn biển cả… Cụ Hồ nói rằng người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước độc lập, thống nhất, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”7. Sự khoan dung, độ lượng là một đức tính và nó cũng là một giá trị văn hoá đã đưa nhân cách Hồ Chí Minh đến độ hoàn hảo, khiến cho Người bình thường, giản dị mà vĩ đại. Bằng cách đó, Người đã lôi kéo, cứu vớt và đem lại cuộc sống cho bao mảnh đời lầm lạc; thu phục, quy tụ được những thành phần, lực lượng, đối tượng khác nhau trong xã hội tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi.
- Đoàn kết đồng thời có nghĩa là phải khoan dung. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi hận thù và chia rẽ do chế độ cũ để lại, sẵn sàng thu dụng những người có tài, có năng lực, có tâm huyết, mà không kể đến quá khứ. Bác đã tuyên bố: “Chính phủ không để tâm moi ra những tội cũ để đem ra làm án mới làm gì”.
c.Thứ ba, quan tâm, chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân; chú trọng nêu gươngđể thực hành đoàn kết.
-Để đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân và các thành phần, lực lượng trong xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo, đáp ứng những lợi ích thực cho mọi người và coi đây là cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Sau khi nước ta giành được độc lập, phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nói:”Chúng ta tranh được độc lập, tự do rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
- Cùng với sự quan tâm, chăm lo tới những nhu cầu vật chất tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại của đồng bào, Hồ Chí Minh còn chú ý nâng cao đời sống văn hoá của các tầng lớp nhân dân. Với đồng bào theo các tôn giáo, Hồ Chí Minh chủ trương chăm lo chu đáo cả “phần xác” lẫn “phần hồn” của đồng bào và cố gắng làm cho đồng bào theo các tôn giáo luôn có “Phần xác no ấm, phần hồn thong dong”, “Sống phúc âm trong lòng dân tộc”, vừa “tốt đời” vừa “đẹp đạo”. Đối với các nhân sĩ, trí thức yêu nước, những người có công với cách mạng, những người có hoàn cảnh khó khăn luôn được Người đặc biệt quan tâm. Khi nghe tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, với sự thương cảm và quan tâm sâu sắc, Người đã viết thư thăm hỏi, động viên, chia sẻ với lời lẽ tự đáy lòng: “Tôi được báo cáo rằng: con trai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì tôi như đứt một đoạn ruột”.
- Chỉ bằng mấy dòng thư cho thấy tấm lòng và sự quan tâm của lãnh tụ với những số phận con người. Chính điều đó đã cảm hoá, thu phục được những đối tượng, thành phần, lực lượng khác nhau, làm cho họ sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Có nhiều người tuy chưa biết rõ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, nhưng trước nhân cách và phương pháp đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ bỏ vinh hoa phú quý trước mắt để đi theo tiếng gọi của Người, trở về với dân tộc, đem tài sức của mình phụng sự sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.Cùng với sự quan tâm, đáp ứng những lợi ích thiết thực của mọi người, Hồ Chí Minh còn chú trọng tới phương pháp nêu gương để thực hành đoàn kết. Theo Người, mọi cán bộ, đảng viên, bộ đội, thanh niên phải đoàn kết chặt chẽ để làm gương cho quần chúng nhân dân; cấp trên phải đoàn kết để làm gương cho cấp dưới; các bậc phụ huynh, các cụ phụ lão cũng phải giữ gìn đoàn kết để noi gương choconcháu…3.Thực hiện tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội Đảng lần thứ II đầu năm 1951, vấn đề đại đoàn kết được đặt ra và nhìn nhận trong những hoàn cảnh khác. Đã có không ít ý kiến xung quanh vấn đề này. Bác kết luận: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc VN”. Lời giải thích đó của Bác đã có sức thuyết phục mạnh mẽ trong đại hội Đảng. Tiếc rằng một số năm sau đó, tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều.Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế. Tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã dẫn tới hai kết quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy rất cơ bản về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng.
Bước vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng đại đoàn kết của Bác lại một lần nữa bừng lên như một sức mạnh vĩ đại của cả dân tộc. Nhiều thành phần khác nhau trong xã hội miền Nam, kể cả các nhân sĩ, các nhà tư sản, thậm chí cả những sĩ quan cao cấp trong quân đội chính quyền Sài Gòn, cũng đã hình thành nhiều tổ chức, nhiều khuynh hướng khác nhau chống lại chế độ độc tài tay sai của Mỹ (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Có một số là thành viên bí mật của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN và mặt trận Sài Gòn - Gia định. Do đó, chính quyền tay sai đã bị cô lập càng bị cô lập hơn, đã suy yếu càng suy yếu hơn. Lực lượng cách mạng đã lớn mạnh càng lớn mạnh hơn.
Trên lĩnh vực quốc tế, tinh thần đoàn kết cũng đã đạt được nhiều kết quả thật ngoạn mục. Phong trào phản chiến ở Mỹ, ở Pháp và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược VN ở nhiều nước trên