Đề tài Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) là loài sống chủ yếu ở nước ngọt, có giá trị kinh tế cao bởi kích thước lớn, thịt thơm ngon và rất có giá trị xuất khẩu. Với diện tích nguồn nước mặt rộng lớn ở nước ta, khả năng nuôi trồng các loài thuỷ sản rất có triển vọng, đặc biệt là nuôi tôm. Việt Nam đã thực sự trở thành nước có khả năng xuất khẩu tôm mạnh trong khu vực và trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng, 2003). Trên thế giới, việc sản xuất giống tôm càng xanh đã được thử nghiệm và đưa vào sản xuất bởi nhiều tác giả: Ling (1969), Liao (1980), Adisukressno (1980), Aquacop (1977 – 1980, 1983, 1984), Malecha (1982 – 1983), (trích bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Ở nước ta các nghiên cứu về sản xuất giống tôm càng xanh nhân tạo cũng được triển khai sớm. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II – Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất Tôm Vũng Tàu đã cho tôm càng xanh sản xuất nhân tạo vào năm 1982 (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Một nghiên cứu khá đầy đủ của Nguyễn Việt Thắng (1993) đã khảo nghiệm các đặc điểm sinh học, phân bố của tôm càng xanh ở Nam Bộ và một số qui trinh sản xuất giống tôm càng xanh đạt kết quả khả quan. Hiện nay, ở nước ta có 2 qui trình sản xuất giống được đưa vào sản xuất rộng rãi, qui trình nước trong - hở, qui trình nước xanh - hở. Trong khi đó qui trình nước trong tuần hoàn tỏ ra khá hiệu quả trong khống chế các yếu tố môi trường đặc biệt là ammonia và nitrite. Tuy nhiên sự hoạt động của hệ thống chưa ổn định, càng về cuối chu kỳ ương hệ lọc chưa giải quyết triệt để NH3-N và NO2¬¬-N (Nguyễn Việt Thắng, 1993) và hệ lọc hoạt động dưới mức yêu cầu trong khi đã theo các qui trình quản lý tốt (van Rijn và ctv, 2005). Với lý do kể trên, được sự chấp thuận của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học - Trường Đại Học Nông Lâm và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực”.

doc60 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2524 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: MỞ ĐẦU Đặt vấn đề Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) là loài sống chủ yếu ở nước ngọt, có giá trị kinh tế cao bởi kích thước lớn, thịt thơm ngon và rất có giá trị xuất khẩu. Với diện tích nguồn nước mặt rộng lớn ở nước ta, khả năng nuôi trồng các loài thuỷ sản rất có triển vọng, đặc biệt là nuôi tôm. Việt Nam đã thực sự trở thành nước có khả năng xuất khẩu tôm mạnh trong khu vực và trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng, 2003). Trên thế giới, việc sản xuất giống tôm càng xanh đã được thử nghiệm và đưa vào sản xuất bởi nhiều tác giả: Ling (1969), Liao (1980), Adisukressno (1980), Aquacop (1977 – 1980, 1983, 1984), Malecha (1982 – 1983),… (trích bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Ở nước ta các nghiên cứu về sản xuất giống tôm càng xanh nhân tạo cũng được triển khai sớm. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II – Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất Tôm Vũng Tàu đã cho tôm càng xanh sản xuất nhân tạo vào năm 1982 (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Một nghiên cứu khá đầy đủ của Nguyễn Việt Thắng (1993) đã khảo nghiệm các đặc điểm sinh học, phân bố của tôm càng xanh ở Nam Bộ và một số qui trinh sản xuất giống tôm càng xanh đạt kết quả khả quan. Hiện nay, ở nước ta có 2 qui trình sản xuất giống được đưa vào sản xuất rộng rãi, qui trình nước trong - hở, qui trình nước xanh - hở. Trong khi đó qui trình nước trong tuần hoàn tỏ ra khá hiệu quả trong khống chế các yếu tố môi trường đặc biệt là ammonia và nitrite. Tuy nhiên sự hoạt động của hệ thống chưa ổn định, càng về cuối chu kỳ ương hệ lọc chưa giải quyết triệt để NH3-N và NO2-N (Nguyễn Việt Thắng, 1993) và hệ lọc hoạt động dưới mức yêu cầu trong khi đã theo các qui trình quản lý tốt (van Rijn và ctv, 2005). Với lý do kể trên, được sự chấp thuận của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học - Trường Đại Học Nông Lâm và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực”. Mục tiêu đề tài Đánh giá hiệu quả của hệ lọc tuần hoàn trong qui trình sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật để ổn định và nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh. Nội dung nghiên cứu Khảo sát sự biến động của các yếu tố môi trường nước nuôi ấu trùng như: nhiệt độ, pH, ammonia (NH3-N), nitrite (NO2-N) và Vibrio tổng số. Kiểm tra các giai đoạn biến thái của ấu trùng để đánh giá sự phát triển của ấu trùng dưới sự quản lý chất lượng nước của hệ lọc sinh học tuần hoàn. Đánh giá yếu tố môi trường và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở các mật độ ương khác nhau. Qua đó đánh giá hiệu quả của hệ lọc sinh học thông qua việc xử lý và ổn định của các yếu tố môi trường trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh. Đưa ra một số kiến nghị cải tiến đối với hệ thống ương tuần hoàn nằm ổn định và nâng cao tỷ lệ sống của hậu ấu trùng. Chương 2: TỔNG QUAN VỀ TÔM CÀNG XANH Phân bố Trên thế giới Các loài tôm càng xanh thuộc giống Macrobrachium, phân bố khắp các vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới trên thế giới. Nhưng vùng chủ yếu là Nam và Đông Nam châu Á, một phần của Đại Tây Dương và một vài bán đảo ở Thái Bình Dương. Hiện nay được biết có trên 100 loài, hơn ¼ trong số này có ở châu Mỹ (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Chúng hầu như có mặt ở tất cả các vùng nước ngọt nội địa, hồ, đầm lầy, kênh dẫn nước, mương, ao và ở các lưu vực sông (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Hầu hết các giống này đều cần có nước lợ cho các giai đoạn phát triển đầu tiên của chu kỳ sống (và do đó đã gặp chúng ở các vùng nước có liên hệ giữa nước ngọt và nước mặn). Một số mước trong tự nhiên không có tôm càng xanh như: Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Israel,… nay cũng đã nuôi được tôm càng xanh trong điều kiện nhân tạo (Phạm Văn Tình, 2004a). Ở Việt Nam Ở nước ta, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào (Phạm Văn Tình, 2004b) nhưng phát triển thuận lợi nhất ở các tỉnh Nam Bộ (Nguyễn Việt Thắng, 1993), đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu Long (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Là nước có sản lượng tôm càng xanh tự nhiên nhiều hơn cả. Ví dụ, trong năm 1980, Việt Nam khai thác ngoài tự nhiên khoảng 6000 tấn/năm, Campuchia 100 – 200 tấn/năm, Malaysia 120 tấn/năm, Thái Lan 400 – 500 tấn/năm (FAO 1979 được trích bởi Phạm Văn Tình 2004b). Phân loại Vị trí phân loại của tôm càng xanh theo Hothius (1950) trích bởi Nguyễn Việt Thắng (1993) như sau: Nghành tiết túc: Athropoda Lớp giáp xác: Crustacea Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca Bộ mười chân: Decapoda Bộ phụ chân bơi: Nantatia Phân bộ: Caridea Họ: Palamonidae Họ phụ: Palamoninae Giống: Macrobrachium Loài: Macrobrachium rosenbergii de Man 1879. Hình thái tôm càng xanh Các đặc điểm của tôm càng xanh được New và Shingolka (1985) miêu tả khá chi tiết. Theo New và Shingolka (1985) thì tôm càng xanh là loài có kích cỡ lớn nhất trong các loài thuộc giống Macrobrachium. Tôm càng xanh con đã lớn và cỡ trưởng thành, thường có màu xanh dễ nhận (chúng không có màu đỏ trừ khi bị nấu chín). Trong số năm đôi chân bò, đôi chân thứ hai rất to, so với các chân khác và tận cùng là một kẹp lớn. Cả hai chân này đều dài bằng nhau (không như một số loài khác thuộc giống Macrobrachium). Tôm càng xanh đực thành thục, to hơn con cái một cách rõ rệt và đôi chân bò thứ hai cũng lớn và dày hơn. Tỷ lệ phần ngực (đầu) của tôm đực thì lớn hơn và phần bụng thì nhỏ hơn tôm cái. Các lỗ sinh dục nằm giữa gốc của đôi chân bò thứ năm. Đầu của tôm cái thành thục và đôi chân bò thứ hai của nó thì nhỏ hơn rất nhiều so với tôm đực. Lỗ sinh dục của con cái, nằm ở gốc của đôi chân bò thứ ba, các tấm vỏ bụng thì dài hơn và phần bụng cũng rộng hơn. Các tấm vỏ bụng tạo thành một buồng rộng và trứng được chứa ở đó trong khoảng thời gian từ lúc đẻ cho đến lúc trứng nở. Tôm cái thành thục hay mang trứng có thể nhận biết dễ dàng do buồng trứng là một khối to màu da cam chiếm một khoảng lớn ở mặt lưng và phía hai bên của phần đầu ngực. Tập tính sinh sản và vòng đời của tôm càng xanh Vòng đời của tôm càng xanh có 4 giai đoạn bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002) và được mô tả như hình 2.2 Hình 2.2. Vòng đời của tôm Caridea. Hình vẽ của Foster và Wickins (1972). Nguồn lấy tại website: Tôm càng xanh sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng ấu trùng lại phát triển trong nước lợ (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Khi thành thục, tôm bắt cặp, đẻ trứng và trứng dính vào các chân bụng của tôm mẹ. Tôm mang trứng di chuyển sang vùng cửa sông nước lợ (7 – 18‰). Ấu trùng nở ra sống phù du và trãi qua 11 lần biến thái để trở thành hậu ấu trùng. Thời gian để hoàn tất giai đoạn ấu trùng có thể dài hay ngắn tuỳ theo điều kiện dinh dưỡng và môi trường, khoảng thời gian nhanh nhất là 16 ngày và chậm nhất là 40 ngày (Phạm Văn Tình, 2004b). Tôm có xu hướng tiến vào vùng nước ngọt như sông, rạch, ruộng, ao, hồ,…ở đó chúng sinh sống và lớn lên. Tôm có thể di cư rất xa, trong phạm vi hơn 200 km từ bờ biển vào vùng nội địa. Khi trưởng thành chúng lại di cư ra vùng có độ mặn thích hợp để sinh sản và vòng đời lại tiếp tục (Phạm Văn Tình, 2004b). Tôm càng xanh có đặc điểm mắn đẻ, gặp điều kiện thuận lợi, thức ăn đầy đủ, tôm có thể cho đẻ 4 – 6 lần trong năm. Khi tôm đang mang trứng, buồng trứng vẫn phát triển, phóng thích ấu trùng xong, sau 2 – 5 ngày lột xác, giao vỹ và đẻ tiếp. (Phạm Văn Tình, 2004b). Trứng thường nở vào ban đêm, sau 1 – 2 đêm mới nở xong (New và Shingolka, 1985), ấu trùng phải sống trong điều kiện nước lợ ở độ mặn từ 7 – 18‰, nếu được nở ở nước ngọt thì ấu trùng phải di chuyển sang môi trường nước lợ để sống và phát triển. Nếu không ấu trùng sẽ chết sau vài ngày (New và Shingolka, 1985; Phạm Văn Tình, 2004b). Tập tính bắt mồi và tăng trưởng Tôm càng xanh là loài ăn tạp thiên về động vật. Mức độ lựa chọn thức ăn không cao. Thành phần thức ăn hầu như không thay đổi theo giới tính. Tôm càng xanh có hàm răng nghiền khoẻ, ruột có cấu tạo ngắn nên khả năng tiêu hoá nhanh. Chúng ăn hầu hết các loài động vật nhỏ, các mảnh vụn hữu cơ. Chúng thường thích bắt mồi vào ban đêm hơn ban ngày (Phạm Văn Tình, 2004a). Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, dùng râu quét ngang dọc phía trước đường đi của nó, đôi chân ngực thứ nhất như một cái kẹp để giữ và đưa thức ăn vào miệng (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong quá trình lớn lên, tôm trãi qua nhiều lần lột xác. Chu kỳ lột xác của tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ của tôm, nhiệt độ, thức ăn, giới tính và điều kiện sinh lý của chúng (Nguyễn Thanh Phương, 2003). Sinh học ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh Biến thái của ấu trùng tôm càng xanh Sau đây là một khoá đơn giản để phân biệt các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm càng xanh theo miêu tả của Uno và Soo, 1969 (trích bởi New và Shingolka, 1985). Giai đoạn I: mắt chưa có cuống Giai đoạn II: mắt có cuống Giai đoạn III: chân đuôi xuất hiện Giai đoạn IV: chuỷ có 2 răng ở cạnh trên Giai đoạn V: đốt đuôi hẹp lại và kéo dài Giai đoạn VI: mầm chân bụng xuất hiện Giai đoạn VII: chân bụng có 2 nhánh và chưa có lông tơ Giai đoạn VIII: chân bụng có lông tơ Giai đoạn IX: nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong Giai đoạn X: chuỷ có 3 hay 4 răng ở đầu cạnh trên Giai đoạn XI: chuỷ có răng ở nửa cạnh trên Giai đoạn XII: chuỷ có răng ở nửa cạnh dưới Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Giai đoạn IV Giai đoạn V Giai đoạn VI Giai đoạn VII Giai đoạn VIII Giai đoạn IX Giai đoạn X Giai đoạn XI Giai đoạn XII (PL) Hình 2.3. Khoá phân biệt các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh theo hình chụp của Fujimura. Nguồn lấy tại website Môi trường sống của ấu trùng Độ mặn Có nhiều ý kiến khác nhau về ngưỡng nồng độ muối ương ấu trùng tôm càng xanh, nhưng thường dao động từ 10 – 15‰ (New và Valenti, 2000). Nguyễn Việt Thắng (1993); Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) đã chọn độ mặn là 12‰ trong suốt quá trình ương nuôi của mình. Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) còn nhận thấy rằng một số ấu trùng ngẫu nhiên còn sống sót trong bể nuôi tôm bố mẹ có độ mặn thấp (4 – 6‰) vẫn biến thái thành hậu ấu trùng. Điều này cho thấy ấu trùng tôm càng xanh có khả năng chịu nồng độ mặn dao động lớn. New và Shingolka (1985) đề xuất nên giữ nồng độ mặn trong bể ương ấu trùng là 12‰ trong suốt từ giai đoạn I đến khi chuyển thành hậu ấu trùng hoàn toàn. Tác giả cũng cho rằng ấu trùng tôm càng xanh có khả năng chịu mặn tốt, trong điều kiện nuôi giống thì độ mặn có thể chênh lệch 12±2‰ không ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng. Độ pH Độ pH nước trong bể chịu ảnh hưởng bởi một số quá trình xảy ra trong nước bao gồm các hợp chất chứa nitơ, sự hoạt động hô hấp của ấu trùng, Artemia và các vi sinh vật hiếu khí khác (New và Valenti, 2000). Theo New và Valenti (2000) thì mức pH tối ưu cho phát triển của ấu trùng tôm càng xanh nằm trong khoảng (7,0 – 8,5). Mặt khác, để có nước ương ấu trùng thì người ta phải dùng nước biển được vận chuyển đến trại giống và pha với nguồn nước hiện có ở địa điểm sản xuất. Theo New và Shingolka (1985) nguồn nước biển thường có pH dao động từ 7,8 – 8,3 và pH của nước giếng ở các vùng ven biển thường dao động từ 7,1 – 7,5. Do vậy hai loại nước này nếu được pha vào nhau sẽ cho pH thích hợp. Nhiệt độ Nhiệt độ nước là một thông số rất quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh, vì vậy nó quyết định chiều dài giai đoạn phát triển ấu trùng (New và Valenti, 2000). Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), ngưỡng nhiệt độ dưới của ấu trùng tôm càng xanh là 210C. Khi nhiệt độ tăng dần lên thì thời gian phát triển của ấu trùng càng rút ngắn. Theo nhiều tác giả; New (1982), Fujimura (1966, 1977), Adisurkressno (1977, 1980) xác định ngưỡng nhiệt độ trên là 33 – 340C. Các tác giả này đều thống nhất cho rằng nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm càng xanh là từ 26 – 310C. Dưới 24 – 260C thì ấu trùng phát triển không tốt (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Trong khi đó Aquacop (1984) thì cho rằng nhiệt độ trên 300C thì ấu trùng có tỷ lệ sống thấp (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Oxy hoà tan Theo nhiều tác giả Ling (1969), Fujimura (1974), New (1982), Aquacop (1977, 1984) đều thống nhất lượng oxy hoà tan trong bể là 6 – 9 mg/l (trích bởi Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong điều kiện sản xuất giống và nếu đảm bảo sục khí đầy đủ thì không cần phải kiểm tra hàm lượng oxy hoà tan trong bể (New và Shingolka, 1985). Ánh sáng Ánh sáng mặt trời trực tiếp dường như có hại cho ấu trùng, đặc biệt là trong hệ thống nước trong (New và Shingolka, 1985), nhưng cũng không thể thiếu ánh sáng cho ấu trùng phát triển. Theo như tác giả đề xuất nên che 90% bề mặt bể để giảm tác hại của ánh sáng trực tiếp. Ấu trùng tôm càng xanh cũng như ấu trùng của các loài giáp xác khác đều có tính hướng sáng tốt, nếu trong bể cường độ ánh sáng lớn sẽ vô tình tạo điều kiện cho ấu trùng tập trung, bám nhau, cạnh tranh về thức ăn trong một không gian hẹp (Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). Điều này không tốt bởi vì tập tính của tôm càng xanh là ăn tạp và ăn thịt lẫn nhau (New và Valenti, 2000), con vừa lột xác còn yếu sẽ dễ làm mồi cho những con khác trong đàn. Tác động của ánh sáng đến ấu trùng còn liên quan đến màu sắc của bể ương bởi vì màu sắc bể phản chiếu ánh sáng truyền vào. Theo Phạm Văn Tình (2004a) nếu sơn bể màu trắng, ánh sáng chiếu vào bể sẽ bị phản chiếu trở lại làm cho ấu trùng bị lầm dẫn đế rối loạn sinh lý. Một nghiên cứu mới đây của Tidwell và ctv (2005) cho thấy dùng bể màu đỏ và màu xanh lá cây thì tỷ lệ sống của ấu trùng là 84% và 78% so với bể sơn màu trắng và màu xanh dương là 56% và 44%, bể sơn màu vàng và màu đen đều bằng 71%. Các báo cáo về nuôi ấu trùng tôm càng xanh thành công thì cường độ ánh sáng trong khoảng 250 – 6500 lux (New và Valenti, 2000). Hợp chất có chứa nitơ Các hợp chất nitơ hoà tan trong nước như: ammonia (NH3-N), nitrite (NO2-N), nitrate (NO3-N) là các thông số đánh giá chất lượng nước rất quan trọng trong hệ thống tuần hoàn. Điều khiển các hợp chất này cho biết điều kiện của lọc sinh học và hiệu quả của hệ thống (New và Valenti, 2000). Chất lượng nước trong bể ương rất dễ bị biến đổi chính do sản phẩm bài tiết của ấu trùng, Artermia và do sự phân huỹ của thức ăn thừa. Một vài biến đổi có thể rất có hại cho ấu trùng. Nguy hiểm nhất là sự tăng ammonia chưa ion hoá (NH3), chất này làm tăng pH và nitrite (New và Shingolka, 1985). Aquacop (1977, 1983), Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) đã xác định ngưỡng sinh lý của một số hợp chất nitơ đối với ấu trùng tôm càng xanh trong môi trường ương: NH4+ là 0,005 – 1,000 mg/l; NO2- là 0,002 – 0,350 mg/l; NO3- là 0,5 – 3,5 mg/l (Trích bởi Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). New và Shingolka (1985) cho rằng không nên lấy nước có hàm lượng nitrite (NO2-N) và nitrate (NO3-N) cao hơn 0,1 ppm và 20 ppm. Trong hệ thống ương tuần hoàn kín, hệ lọc sinh học có tác dụng làm giảm nồng độ các hợp chất độc này (van Rijn và ctv, 2005). Thông qua các vật liệu lọc sinh học nhằm gia tăng lượng vi sinh vật tham gia thực hiện quá trình khoáng hoá và nitrate hóa để chuyển đổi các dạng độc chất ammonia và nitrite thành dạng nitrate vô hại (Nguyễn Việt Thắng, 1996). Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu môi trường đòi hỏi với nguồn nước sử dụng trong nuôi ấu trùng tôm càng xanh Chỉ tiêu (ppm) Nước ngọt Nước biển Nước lợ Rắn tổng số (như CaCO3) <120 ~ 2325 – 2715 Ca 12 – 24 390 – 450 175 – 195 Na 28 – 100 5950 – 10500 3500 – 4000 K 2 – 24 400 – 525 157 – 220 Mg 10 – 27 1250 – 1345 460 – 540 SiO2 41 – 53 3 – 14 5 – 30 Fe <0,2 0,05 – 0,15 <0,03 Zn 0,2 – 0,4 0,03 – 4,6 <3 Cr <0,01 <0,005 <0,01 Pb <0,02 <0,03 <0,03 Cl 40 – 225 19000 – 19600 6600 – 7900 SO4 3 – 8 ~ ~ PO4 <0,2 ~ ~ Chất rắn hòa tan tổng số 217 ~ ~ Oxy hòa tan >4 >5 >5 NH3-N ~ ~ <0.1 NO2-N ~ ~ <0.1 NO3-N ~ ~ <20 pH 6,5 – 8,5 7,0 – 8,5 7,0 – 8,5 Nhiệt độ ~ ~ 28 – 310C Ghi chú: “~”: không biết hay không cần thiết. Nguồn: New (2002) Vấn đề chăm sóc, quản lý Hầu hết các vấn đề phát sinh trong nhà giống đều do nguyên nhân quản lý kém (New và Shigolka, 2000). Cho ăn Một khía cạnh không kém phần quan trọng trong sản xuất giống tôm càng xanh đó là kỹ thuật cho ăn (New và Valenti, 2000) bởi vì thức ăn đóng vai trò quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống, biến thái cũng như môi trường nước ương (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Có 2 loại thức ăn được dùng, đó là nauplius Artemia và thức ăn chế biến (New và Shingolka, 1985). Thức ăn chế biến có nhiều công thức phối chế rất khác nhau, nhưng chủ yếu gồm các loại nguyên liệu sau: thịt tôm, thị mực, trứng cá, dầu cá, các vitamine và khoáng chất (New và Shingolka, 1985). Việc cho ăn nên đảm bảo đầy đủ để tránh ấu trùng đói, chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau. Tuy nhiên nếu thừa nhiều thức ăn (nhất là thức ăn chế biến) sẽ làm nước bể ương bị dơ, làm cơ sở cho mầm bệnh tấn công (New và Shingolka, 1985). Vệ sinh Đảm bảo bệ sinh tốt sẽ góp phần ngăn ngừa dịch bệnh (New và Valenti, 2000). Nước thay được xử lý kém hay vệ sinh kém là nguyên nhân xuất hiện nấm (Zoothanium), ký sinh (Epistylis), hydroid (thuỷ tức) có ảnh hưởng bất lợi tới ấu trùng. (New và Valenti, 2000). Theo như đề xuất của New và Shingolka (1985) thì mỗi bể nên có dụng cụ vệ sinh riêng. Các bể nên được vệ sinh, khử trùng giữa hai chu kỳ ương theo quy trình. Cọ rữa bể, xử lý bằng 1,5 ppm chrorine. Phun 250 ppm formaline, phơi dưới ánh nắng mặt trời rồi rữa lại. Nếu không thực hiện tốt việc vệ sinh sẽ làm phát triển rộ các vi sinh vật trên. Tạo đàn tôm toàn đực bằng kỹ thuật vi phẩu Ưu thế của việc sản xuất đàn toàn đực Một trở ngại lớn trong nuôi tôm càng xanh thương phẩm là sự phân đàn khi nuôi chung tôm đực và tôm cái. Tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong một quần đàn (Ra’anna và Sagi, 1986). Trở ngại này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ và sản lượng tôm thương phẩm (Smith và ctv, 1978; Brody và ctv, 1980; Cohen và ctv, 1981; Sagi và ctv, 1986; Nguyễn Vệt Thắng, 1993) trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004. Với sự cố gắng bước đầu trong sản xuất đàn tôm càng xanh toàn đực của Sagi, Ra’anan, Cohen và Wax (1986) trên quy mô nuôi nhỏ đã cho thấy khả năng sản xuất cao của đàn toàn đực sau 150 ngày nuôi. Năng suất đạt 473 g/m2 của đàn toàn đực so với 248 – 260 g/m2 của đàn tôm bình thường có hỗn hợp đực cái. Việc sản xuất đàn toàn đực cho năng suất cao và đạt kích cỡ thương mại nhanh hơn (Sagi và Aflalo, 2005). Sau đó Cohen, Sagi, Ra’anan và Zohar (1988) thực hiện việc thử nghiệm nuôi đàn toàn đực tập trung trong ao đất (Sagi và Aflalo, 2005) và cho thấy đàn toàn đực cho năng suất thương mại cao, gia tăng trọng lượng trung bình, lợi nhuận thu được cũng tăng 18% ở Israel. Vai trò của tuyến đực trong xác định giới tính ở tôm càng xanh Không giống như các loài động vật có xương sống, ở giáp xác đực chức năng nội tiết và sinh giao tử phân biệt thành 2 cơ quan rõ rệt: tuyến đực (androgenic gland) và sinh tinh trùng (testis) (Ginburger-Vogel & Charniaux – Cotton 1982; Charniaux – Cotton & Payen 1988) trích bởi Sagi và Aflalo (2005). Năm 1990, qua quá trình nghiên cứu, Sagi và ctv đã phát hiện ra tuyến đực có vai trò quan trọng đối với sự hình thành giới tính và các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp cũng như ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ở giáp xác. Năm 2000, Phạm Anh Tuấn và ctv làm thí nghiệm cắt tuyến sinh dục của tôm càng xanh giống cỡ 3 – 5 cm đã làm thay đổi cấu trúc sinh dục của tôm càng xanh. Theo tác giả thì cồn 960 có thể tác dụng phá hũy cấu trúc của tuyến đực và làm thay đổi một số đặc điểm sinh dục phụ trên tôm càng xanh đực. Theo nhiều tác giả (Nagamine, Knight, Maggesnti và Pax, 1980) tôm càng xanh đực đã được biệt hoá ở giai đoạn phát triển còn non. Điều này chứng tỏ tôm càng xanh đực có mức thuộc cái cao, bao gồm sự phát triển của vòi trứng và ống dẫn trứng (Sagi và Aflalo, 2005) khi chưa được biệt hoá đực. Ở tôm càng xanh, theo Veith và Malecha (1983) tuyến đực gồm một sợi các tế bào bao quanh bởi một lớp mô liên kết hình thành nên một cụm liên kết lỏng lẽo nằm phía sau của ống dẫn tinh (Sagi và Aflalo, 2005). Theo tác giả có thể thao tác loại tuyến đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN HOAN CHINH.doc
  • docBIA 1.doc
  • docBIA 2.doc
  • docphan mo dau.doc