Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế
của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ
XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua
nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường
quốc doanh cà phê. Với một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong
một phần tư thế kỷ, kể từ sau năm 1975 ngành cà phê Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác
trên thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên
500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với
kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất
khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế
giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và
vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế
cao mà còn mang lại hiệu quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn.
Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây
Nguyên.
Tây Nguyên với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500
m đến 600 m so với mặt biển, là vùng đất rất phù hợp với những cây công
nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm trong đó cà phê được xem là cây
công nghiệp quan trọng giữ vị trí số một với tổng diện tích khoảng 470.000 ha,
chiếm 92,79% diện tích trồng cà phê của cả nước. Điều đó đã góp phần khai
thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dâ
79 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế
của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ
XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua
nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường
quốc doanh cà phê. Với một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong
một phần tư thế kỷ, kể từ sau năm 1975 ngành cà phê Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác
trên thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên
500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với
kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất
khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế
giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và
vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế
cao mà còn mang lại hiệu quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn.
Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây
Nguyên.
Tây Nguyên với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500
m đến 600 m so với mặt biển, là vùng đất rất phù hợp với những cây công
nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm trong đó cà phê được xem là cây
công nghiệp quan trọng giữ vị trí số một với tổng diện tích khoảng 470.000 ha,
chiếm 92,79% diện tích trồng cà phê của cả nước. Điều đó đã góp phần khai
thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân.
Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc khu vực của Tây Nguyên nơi đây
đóng góp một sản luợng cà phê rất lớn cho toàn khu vực Tây Nguyên cũng như
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
2của cả nước. Cà phê được trồng ở Đắk Lắk từ rất lâu nhưng đến năm 1986,
xuất phát từ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và chính
quyền Đắk Lắk mới có chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển và thâm
canh cây cà phê. Thực hiện chủ trương của Tỉnh, từ giữa những năm 80 của thế
kỷ XX các đơn vị làm công tác xuất nhập khẩu đã tìm đến từng hộ nông dân
với hình thức đầu tư ứng trước, nghĩa là “quốc doanh” ứng trước cho nông dân
máy cày, phân bón, có cả lương thực và thu hồi vốn sau khi có cà phê nhân,
nông trường quốc doanh thì vận động bà con vào làm công nhân nhận khoán
trồng và chăm sóc cà phê.
Từ đó Đắk Lắk hình thành nhiều vùng chuyên canh cây cà phê, có đơn
vị phấn đấu chỉ tiêu trong một mùa mưa trồng một nghìn ha như Công ty cà
phê Phước An, Thắng Lợi, Ea Tiêu, Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt - Đức. Bên
cạnh đó, Đắk Lắk còn liên doanh trồng cà phê với nước ngoài, cụ thể là Liên
doanh Việt-Xô, Việt - Đức. Vùng chuyên canh cà phê chiếm 86% diện tích sản
xuất nông nghiệp và 89% sản lượng cà phê trong toàn Tỉnh. Hiện nay, tỉnh Đắk
Lắk có 8 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê do Tỉnh quản lý đang thực
hiện các loại khoán trên với tổng diện tích khoảng 6.770 ha.
Cùng chung với sự phát triển trong hoạt động sản xuất cà phê trên địa
bàn Tỉnh, Công ty cà phê Phước An đã có những bước thay đổi trong cách thức
quản lý sản xuất theo từng giai đoạn lịch sử, từ quản lý theo lối hành chính bao
cấp, chuyển sang khoán đến hộ gia đình trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã
góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nguời dân vùng núi.
Hình thành và phát triển từ những năm 1977, mô hình cà phê khoán đến các hộ
đang được sự quan tâm và đầu tư của công ty cũng như các hộ dân.
Tuy nhiên, trước tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay,
Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo,
không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ
được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có
những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
3đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích
cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả.
Bên cạnh đó trong nước mô hình sản xuất cà phê theo lối tự quản lý của hộ đang
chiếm một vị trí mạnh (gần 80% diện tích cà phê của cả nước do các hộ tự quản
lý), ngược lại mô hình khoán chỉ chiếm khoảng gần (20% diện tích trồng cà
phê) do công ty và hộ nhận khoán hợp tác cùng quản lý.
Chính những biến động và khó khăn đó sẽ làm cho hoạt động sản xuất
cà phê cũng như sự tồn tại của các hình thức khoán ở công ty cà phê Phước An
nói riêng mà cụ thể là những người dân nhận khoán của công ty ít nhiều sẽ bị
ảnh hưởng. Vì thế chúng tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu, đánh giá kết quả đầu tư và
hiệu quả sản xuất cà phê khoán tới hộ dân tại công ty cà phê Phước An là rất
cần thiết. Để từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm phát triển hình thức
nhận khoán tới hộ một cách hiệu quả và bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại
công ty cà phê Phước An thuộc Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk tôi đã chọn
đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán
thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk ” để làm
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá thực trạng, tiềm năng để phát triển cà phê theo phương thức
khoán tới hộ thuộc công ty cà phê Phước An.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cà phê của các hộ gia đình
nhận khoán ở công ty cà phê Phước An.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất cà phê trên địa bàn công ty cà phê Phước An.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
- Phương pháp điều tra phỏng vấn thu thập số liệu và thông tin cần thiết
phục vụ cho việc nghiên cứu.
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
4- Các phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên
nhân của các vấn đề.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những vấn đề
kinh tế, kỹ thuật trong mối quan hệ với các vấn đề tổ chức quản lý hiệu quả sản
xuất cà phê của các hộ nhận khoán.
b) Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Do hạn chế về khả năng và thời gian nghiên cứu nên đề
tài chỉ tập trung phản ánh tình hình sản xuất cà phê tại hai đội đại diện cho 2
hình thức khoán khác nhau: (có đầu tư – không có đầu tư của công ty), đồng
thời là hai đội có diện tích cà phê lớn nhất trong công ty cà phê Phước An,
huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk.
Về thời gian: Qua khảo sát thực tế tại công ty Phước An, chúng tôi chỉ
tiến hành đánh giá, phân tích thực trạng sản xuất cà phê của hộ trong năm
2009.
Do hạn chế về thời gian thực tập cũng như khả năng của bản thân nên đề
tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp
ý và giúp đỡ của quý Thầy, Cô giáo cùng bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
5PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành cà phê
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê trên Thế giới
Lịch sử về cà phê thực sự cũng đa dạng như cách pha chế nó.
Một truyền thuyết kể rằng: Một người chăn dê nhận thấy rằng đàn gia
súc của mình trở nên nghịch ngợm hơn bình thường sau khi ăn những quả màu
đỏ từ bụi cây cà phê dại. Không lâu sau những thầy tu bắt đầu đun những
những hạt này và sử dụng chất lỏng này để thức suốt đêm trong các lễ hội.
Câu chuyện khác lại kể về một thầy tu Đạo Hồi - người đã bị kết tội bởi
kẻ thù của mình. Hình phạt là phải đi lang thang trong sa mạc và cuối cùng là
chết đói. Trong cơn mê sảng, chàng trai trẻ đã nghe thấy âm thanh hướng dẫn
mình ăn những quả từ cây cà phê gần đó. Anh ta đã sống sót, khoẻ mạnh và
quay lại với cộng đồng của mình, công bố rộng rãi kinh nghiệm về công thức.
Ban đầu, các bộ lạc phía đông châu Phi đã nghiền quả cà phê sau đó
trộn lẫn với mỡ động vật, vê lại thành những viên nhỏ. Sau đó vào khoảng năm
1000 sau Công Nguyên, người Ethiopia đã pha chế một loại rượu từ những hạt
cà phê bằng cách lên men những hạt cà phê khô trong nước. Cây cà phê cũng
đã mọc tự nhiên ở bán đảo Ai Cập và từ đó trong suốt thế kỷ XI, cà phê đã
được phát triển thành một dạng đồ uống nóng.
Cà phê cũng đã du nhập vào Châu Âu trong khoản thời gian này thông
qua thành phố Venice và đến châu Mỹ La Tinh sau đó nhiều thập kỷ, khi một
người Pháp mua một cành cà phê mang đến Martinique. Brazin đã nổi lên như
một nơi sản xuất cà phê đứng đầu trên thế giới và là danh hiệu đó vẫn còn đến
hôm nay.
Đại
họ
Kin
h tế
Hu
ế
61.1.1.2 Qúa trình ra đời và phát triển cây cà phê ở Việt Nam
Cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một
số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum... Tới đầu thế kỷ XX trở đi thì
cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền
người Pháp với tổng diện tích không quá vài ngàn hecta.
Sau cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển
thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên
10.000 ha vào năm 1963 – 1964. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm
trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 -
600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Ở miền Nam
trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha.
Diện tích trồng cà phê ở miềm Nam trong thời kỳ này chủ yếu là giống cà phê
vối (Canephora robusta). Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt
trên dưới 1 tấn/ha.
Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên
nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ,
CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha.
Ngày nay trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ
kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Đến nay, diện tích cà phê trên
cả nước 521.000 ha và sản lượng khoảng trên 900.000 tấn và Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới. Cà phê trồng ở nước ta
có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện tích, cà phê chè (Arabica)
10% và cà phê mít (Excelsa) 1%.
1.1.2 Vị trí, giá trị kinh tế của cây cà phê
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở vùng nông
thôn và miền núi cao nguyên. Nên việc phát triển ngành nông nghiệp để tạo
công ăn việc làm cho người lao động ở nhưng khu vực đó là vấn đề hết sức có
ý nghĩa.
Đại
ọ
Kin
h tế
Hu
ế
7Cây cà phê được xem là cây công nghiệp lâu năm không những có giá
trị về mặt kinh tế mà còn có tác dụng rất lờn về nhiều mặt của xã hội và tạo
công ăn việc làm ổn định, đặc biệt góp phần vào việc giảm tình trạng du canh,
du cư ở những miền núi cao nguyên. Sản phẩm cà phê chủ yếu là hạt, Việt
Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các nước phát triển cà phê dưới dạng cà phê
nhân thô chưa qua chế biến. Tuy vậy, cà phê lại là nguồn xuất khẩu quan trọng
đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Cà phê hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào
các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm
tới trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm. Chúng ta đã
xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Cà phê
Moment, cà phê Buôn Ma Thuột...
Được biết Ngành sản xuất cà phê Việt Nam là nguồn thu nhập quan
trọng của 600 nghìn lao động và hơn 1 triệu người sống nhờ vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh có liên quan đến cây cà phê.
1.1.3 Tác dụng của cây cà phê đối với chương trình xoá đói giảm nghèo
nông thôn cao nguyên và miền núi
Khi nói đến vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng ở miền núi cũng
như ở các khu vực khác thì thường nêu lên những giá trị kinh tế mà nó đem lại
như: Góp phần định canh định cư cho đồng bào dân tộc ít người, tạo công ăn
việc làm, làm giàu cho kinh tế hộ, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi
trường tạo cảnh quan xanh đẹp và thực tế ở một số nơi đã thoát nghèo và làm
giàu từ chính cây cà phê đem lại.
Tuy nhiên không phải nơi nào, vùng đất nào, cũng có thể lấy cà phê làm
cây trồng chính để mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Người ta thường
ví Cà phê là cây của “người giàu”, nghĩa là khâu chăm sóc kỹ thuật rất quan
trọng. Nó đòi hỏi người trồng phải có đủ vốn đầu tư cộng thêm những hiểu biết
về kỹ thuật, chăm sóc thu hoạch phải đầy đủ có như thế mới phát huy hiệu quả
của nó đem lại. Chính vì thế mà có những hộ nông dân nghèo không có đủ vốn
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
8thì tác dụng cà phê đem lại là điều ngược lại. Do đó để phát triển tốt cà phê, rõ
ràng về phía Nhà nước cần phải có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh cho
nông dân từ sản xuất đến chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay vai trò các
công ty, doanh nghiệp cà phê đóng một vị trí quan trọng, chính những đơn vị
này sẽ là cầu nối giúp người nông dân phát triển kinh tế.
1.1.4 Khái niệm, ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế
1.1.4.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định. Nói cách khác, kết quả mà chủ thể nhận được
theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao
nhiêu thì có lời bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá các
phương án hành động và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.
Hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện nhiều
mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi
phí để có được những kết quả đó.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị
chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ
thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp.
Hiệu quả phân bổ là giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi
thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất nó là hiệu quả kỹ thuật có tính đến
các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là phần thu thêm trên một
đơn vị đầu tư thêm đạt được chỉ khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ là
tối đa, có nghĩa là cả yếu tố giá trị và hiện vật tính đến khi xem xét việc sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Vậy muốn đạt được hiệu quả kinh tế thì
phải đạt đồng thời cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.
Đại
học
K n
h tế
Huế
9Sơ đồ minh họa cho khái niệm hiệu quả kinh tế:
Giả sử có 4 nông trại sản xuất nông nghiệp là A, B, C, D quá trình sản
xuất chỉ sử dụng 2 yếu tố đầu vào là X1 ,X2 để cùng sản xuất ra một mức sản
lượng Q0.
Trong đó: Q0 - Là sản lượng đầu ra
Q0Q0 - Là đường đồng lượng
P1P2 - Là đường đồng phí
X2 Q0
D
P2
C
R
A B
Q0
0 X1
P1
Sơ đồ 1: Hiệu quả kinh tế, Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ
Từ sơ đồ trên ta thấy:
TE=OC/OD Hiệu quả kỹ thuật
TINE=CD/OD Phi hiệu quả kỹ thuật
AE=OR/OC Hiệu quả phân bổ
AINE=RC/OC Phi hiệu quả phân bổ
Vậy ta có: EE = OR/OD = OC/OD* OR/OC=TE*AE
Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật *Hiệu quả phân bổ
Qua kết quả trên cho được thì trang trại A đạt hiệu quả kinh tế, trang trại
B, C đạt hiệu quả kỹ thuật còn trang trại D không đạt hiệu quả vì cùng một
mức sản lượng là Q0 giống trang trại C, nhưng trang trại D còn phải lãng phí
thêm một khoảng là DC mới đạt mức sản lượng giống trang trại C.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
10
1.1.4.2 Ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế
Bản chất của việc phân tích hiệu quả là so sánh giữa chi phí và kết quả
theo những mục tiêu nhất định được biểu hiện dưới dạng hiện vật. Đó là số
lượng, chất lượng của những sản phẩm dịch vụ đầu vào và đầu ra. Những sản
phẩm này không thể so sánh trực tiếp với nhau nên những chi phí, lợi ích cần
được tính ra giá trị tương đương. Muốn vậy phải thông qua giá cả, là nhân tố
quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ
bản trong sản xuất kinh doanh đó là yếu tố nguồn lực và giá trị trong việc sử
dụng các yếu tố nguồn lực.
Yếu tố nguồn lực (yếu tố đầu vào): Chi phí trung gian, lao động sống,
khấu hao tài sản, thuế ...
Yếu tố giá trị (yếu tố đầu ra ): Số lượng, giá trị sản phẩm, giá trị sản
xuất, thu nhập, lợi nhuận, giá trị gia tăng
Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối và
tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Vì thế, việc xác
định các yếu tố đầu vào trong đánh giá hiệu quả kinh tế là gặp phải những khó
khăn bởi nhưng yếu tố tư liệu sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất và
những yếu tố phi vật chất như chính sách môi trường, công nghệ, nó đòi hỏi
phải toàn diện.
Do đó có thể nói trên bình diện xã hội, thước đo của hiệu quả là mức độ
tối đa hoá trên một đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Chỉ khi nào việc sử
dụng các yếu tố nguồn lực đạt được cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ mới đạt được hiệu quả kinh tế trong sản xuất.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê ở nước ta
Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê.
Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà
phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 600-800m) phù hợp
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
11
với cà phê chè. Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè,
trong đó diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng.
Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk
Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện
tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng
cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở
vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn,
nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh
Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.
Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các
năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là
48,5%, 45,8% và 33%). Tăng trưởng cà phê Việt Nam những năm đầu thập
niên 90 chủ yếu dựa trên tăng diện tích. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố
chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Cùng với xu
hướng đó, cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản quan trọng của Việt Nam
trong thập kỷ 90 chỉ trong vòng 7 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
cà phê đứng thứ 2, sau Brazin với diện tích cà phê lên tới 520.000 ha đạt mức
sản lượng 900.000 tấn.
Trong 10 năm trở lại đây Ngành cà phê đã có những bước phát triển
nhanh chóng đưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo ra những cơ hội lớn cho ngành nông nghiệp nước ta phát huy lợi
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái để phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh
cao như cà phê.
Xem xét diễn biến tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam qua các niên vụ
2005/2006 - 2007/2008 gần đây có thể thấy được sự tăng trưởng nhanh chóng
cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu bên cạnh sự biến động về giá cả.
Trong niên vụ 2005/2006 cả nước xuất khẩu 775.458 tấn (12,9 triệu
bao), giảm 7,3% so với năm trước và tăng 35% về trị giá xuất khẩu với kim
Đại
học
Kin
h tế
Huế
12
ngạch xuất khẩu đạt 1,40 tỷ USD. Sở dĩ sản lượng cà phê giảm xuống là do cà
phê mất mùa vì thời tiết khô hạn kéo dài, cây cà phê sinh trưởng và phát dục
khó khăn. Tiếp đến niên vụ 2006/2007, sản lượng xuất khẩu tăng 74% so với
niên vụ 2005/2006, đạt 1.200.000 tấn với kim ngạch xuất khẩu