Các chất ma túy nói chung và thuốc phiện nói riêng đang là nguyên nhân gây ra
các tệ nạn cho nhân loại nói chung và người Việt Nam nói riêng. Ma túy là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh tật, đói nghèo, hủy hoại giống nòi, nguồn lao
động và rất nhiều các tệ nạn khách đi theo nó.
Đảng và Nhà nước ta xác định tệ nạn ma túy là tệ nạn cực kỳ nguy hại, trái với
đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng rất xấu đến phát triển kinh tế, gây hại
lớn cho sức khoẻ của một bộ phận nhân dân, ảnh hưởng xấu tới nòi giống dân tộc, để
lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau. Đây là mối quan tâm, lo lắng của
toàn xã hội.
Huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An do hợp đất, hợp khí hậu, cây thuốc phiện rất dễ
trồng, lên tốt và có thu nhập cao hơn so với các loại cây khác nên thu hút người dân ở
các xã vùng biên tham gia trồng. Trong tổng số 16 xã của huyện có trồng cây thuốc
phiện thì xã Mường Lống là xã trồng nhiều nhất, được mệnh danh là “thủ phủ thuốc
phiện” của tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện Nghị Quyết số 6 – CP của Chính Phủ về “Tăng cường chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy”, năm 1996, tỉnh Nghệ An đã ban hành
chủ trương “xóa bỏ và chống tái trồng cây thuốc phiện trên toàn tỉnh”. Hưởng ứng
và triển khai chủ trương của tỉnh, huyện Kỳ Sơn đã phát động cuộc vận động loại bỏ
cây thuốc phiện ra khỏi đời sống cộng đồng, đặc biệt là điểm nóng ở xã Mường
Lống. Song song với biện pháp tuyên truyền, một số nghiên cứu khoa học để đưa ra
giải pháp xóa bỏ cây thuốc phiện một cách bền vững đã được tiến hành. Các nghiên
cứu đưa ra một kết luận là phải đưa một cây trồng phù hợp nhất với điều kiện tự
nhiên của xã Mường Lống. Đoàn công tác phòng chống ma túy và xóa bỏ cây thuốc
phiện của tỉnh Nghệ An được cử đi tìm hiểu các mô hình kinh tế của huyện Sapa tỉnh
Lào Cai. Và thấy cấy mận tam hoa là phù hợp nhất với xã Mường Lống. Khi đó đề
án “Đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống”
được xây dựng và triển khai từ năm 1996. Đến năm 1999, những cây mận tam hoa
bắt đầu cho thu hoạch.
Đại học Kinh tế Huế- 2 -
Để không tái trồng cây thuốc phiện thì cây mận tam hoa phải có hiệu quả kinh
tế cao nhất. Chưa có đề tài nào nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất
cây mận tam hoa của xã vùng cao Mường Lống. Một số câu hỏi đặt ra là: liệu rằng
cây mận tam hoa có mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không? Nó đóng vai trò như
thế nào trong nguồn thu nhập của bà con dân tộc ở xã Mường Lống? Trong vòng 10
năm cho thu hoạch thì cây mận tam hoa có những thuận lợi gì và đang gặp phải
những khó khăn nào?
Để có căn cứ khoa học cho việc trả lời những câu hỏi trên, tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm trong đề án đưa
cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống – huyện
Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất nậm tam hoa ở xã vùng
cao Mường Lống trong thời gian qua. Từ đó đề tài đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cây mận tam hoa trong thời gian tới và
đưa cây mận tam hoa thực sự là cây trồng phù hợp nhất thay thế cây thuốc phiện mà
các cây trồng khác không có được.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hoàn thiện lý luận và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế nói
chung và sản xuất mận tam hoa nói riêng.
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế sản xuất cây mận tam hoa từ
khi triển khai dự án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện cho đồng bào
dân tộc H’Mông ở xã vùng cao Mường Lống.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về hiệu quả kinh tế sản xuất đề xuất định
hướng và một số giải pháp chủ yếu có căn cứ khoa học và thực tiễn nhằm phát triển
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây mận tam hoa.
80 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm trong Đề án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Các chất ma túy nói chung và thuốc phiện nói riêng đang là nguyên nhân gây ra
các tệ nạn cho nhân loại nói chung và người Việt Nam nói riêng. Ma túy là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh tật, đói nghèo, hủy hoại giống nòi, nguồn lao
động và rất nhiều các tệ nạn khách đi theo nó.
Đảng và Nhà nước ta xác định tệ nạn ma túy là tệ nạn cực kỳ nguy hại, trái với
đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng rất xấu đến phát triển kinh tế, gây hại
lớn cho sức khoẻ của một bộ phận nhân dân, ảnh hưởng xấu tới nòi giống dân tộc, để
lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau. Đây là mối quan tâm, lo lắng của
toàn xã hội.
Huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An do hợp đất, hợp khí hậu, cây thuốc phiện rất dễ
trồng, lên tốt và có thu nhập cao hơn so với các loại cây khác nên thu hút người dân ở
các xã vùng biên tham gia trồng. Trong tổng số 16 xã của huyện có trồng cây thuốc
phiện thì xã Mường Lống là xã trồng nhiều nhất, được mệnh danh là “thủ phủ thuốc
phiện” của tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện Nghị Quyết số 6 – CP của Chính Phủ về “Tăng cường chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy”, năm 1996, tỉnh Nghệ An đã ban hành
chủ trương “xóa bỏ và chống tái trồng cây thuốc phiện trên toàn tỉnh”. Hưởng ứng
và triển khai chủ trương của tỉnh, huyện Kỳ Sơn đã phát động cuộc vận động loại bỏ
cây thuốc phiện ra khỏi đời sống cộng đồng, đặc biệt là điểm nóng ở xã Mường
Lống. Song song với biện pháp tuyên truyền, một số nghiên cứu khoa học để đưa ra
giải pháp xóa bỏ cây thuốc phiện một cách bền vững đã được tiến hành. Các nghiên
cứu đưa ra một kết luận là phải đưa một cây trồng phù hợp nhất với điều kiện tự
nhiên của xã Mường Lống. Đoàn công tác phòng chống ma túy và xóa bỏ cây thuốc
phiện của tỉnh Nghệ An được cử đi tìm hiểu các mô hình kinh tế của huyện Sapa tỉnh
Lào Cai. Và thấy cấy mận tam hoa là phù hợp nhất với xã Mường Lống. Khi đó đề
án “Đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống”
được xây dựng và triển khai từ năm 1996. Đến năm 1999, những cây mận tam hoa
bắt đầu cho thu hoạch.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 2 -
Để không tái trồng cây thuốc phiện thì cây mận tam hoa phải có hiệu quả kinh
tế cao nhất. Chưa có đề tài nào nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất
cây mận tam hoa của xã vùng cao Mường Lống. Một số câu hỏi đặt ra là: liệu rằng
cây mận tam hoa có mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không? Nó đóng vai trò như
thế nào trong nguồn thu nhập của bà con dân tộc ở xã Mường Lống? Trong vòng 10
năm cho thu hoạch thì cây mận tam hoa có những thuận lợi gì và đang gặp phải
những khó khăn nào?
Để có căn cứ khoa học cho việc trả lời những câu hỏi trên, tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm trong đề án đưa
cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống – huyện
Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất nậm tam hoa ở xã vùng
cao Mường Lống trong thời gian qua. Từ đó đề tài đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cây mận tam hoa trong thời gian tới và
đưa cây mận tam hoa thực sự là cây trồng phù hợp nhất thay thế cây thuốc phiện mà
các cây trồng khác không có được.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hoàn thiện lý luận và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế nói
chung và sản xuất mận tam hoa nói riêng..
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế sản xuất cây mận tam hoa từ
khi triển khai dự án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện cho đồng bào
dân tộc H’Mông ở xã vùng cao Mường Lống.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về hiệu quả kinh tế sản xuất đề xuất định
hướng và một số giải pháp chủ yếu có căn cứ khoa học và thực tiễn nhằm phát triển
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây mận tam hoa.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 3 -
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp chọn điểm và phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu
1.3.1.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu phải đại diện cho vùng
nghiên cứu trên phương diện điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các đặc điểm đặc
trưng về tình hình nông thôn và nông dân của xã. Căn cứ vào đặc điểm của xã, dựa vào
đặc điểm năng suất, quy mô sản xuất mận tam hoa, xã Mường Lống chia thành các
nhóm hộ: nhóm hộ có qui mô trồng mận tam hoa nhiều, nhóm hộ có qui mô trung
bình, nhóm hộ có qui mô ít. Trong nghiên cứu chúng tôi chọn các hộ ở bản Mường
Lống I đại diện cho 3 nhóm hộ trồng mận trên.
1.3.1.2. Phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ chọn nghiên cứu những hộ nông dân trồng mận tam hoa trong xã
Mường Lống. Về cơ bản, đề tài chọn đối tượng nghiên cứu dựa trên tiêu chí qui mô
sản xuất mận tam hoa (qui mô lớn, trung bình và nhỏ) việc phân chia qui mô này dựa
trên sự so sánh tổng thể chung của các hộ nông dân trồng mận tam hoa trong xã.
1.3.2. Thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu thứ cấp thông qua phòng thống kê, phòng nông nghiệp và một số
phòng ban khác có liên quan của huyện Kỳ Sơn, của xã Mường Lống (từ năm 2007 đến
năm 2009).
1.3.3. Thu thập số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc thiết kế phiếu điều tra phỏng vấn và
tiến hành phỏng vấn trực tiếp 45 hộ được lựa chọn ngẫu nhiên.
1.3.4. Phương pháp xử lý thông tin, phân tích số liệu
1.3.4.1. Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê số liệu qua các thời kỳ để thấy được sự biến động về tình hình sản
xuất mận tam hoa của các hộ nông dân ở xã Mường Lống.
1.3.4.2. Phương pháp thống kê so sánh
Dùng để so sánh giữa những hộ có điều kiện kinh tế khác nhau, những hộ có
quy mô khác nhau để làm sáng tỏ tình hình sản xuất và tiêu thụ ở các nhóm hộ khác
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 4 -
nhau có khác nhau hay không, nếu không khác nhau thì nguyên nhân tại sao, nếu khác
nhau thì do những lý do gì? để từ đó đưa ra được những định hướng và giải pháp cho
phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa cho các hộ nông
dân trong xã.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân sản xuất mận tam hoa ở xã vùng cao Mường Lống – huyện Kỳ
Sơn – tỉnh Nghệ An.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung: đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm
trong đề án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường
Lống – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An.
* Phạm vi về thời gian: thời gian thực hiện đề tài từ ngày 5/02/2010 đến ngày
15/05/2010, cụ thể là nghiên cứu thực trạng sản xuất, hiệu quả kinh tế sản xuất mận
tam hoa:
+ Từ khi được thu hoạch đến năm 2006, dựa trên số liệu thứ cấp của các cơ
quan, ban ngành huyện Kỳ Sơn và UBND xã Mường Lống.
+ Trong 3 năm (2007 – 2009), dựa trên số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp thông
qua điều tra thực tế, phỏng vấn các hộ trồng mận tam hoa ở xã Mường Lống.
* Phạm vi về không gian: nghiên cứu tình hình sản xuất mận tam hoa trên địa
bàn xã vùng cao Mường Lống – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An.Đại
học
Kin
h ế
Hu
ế
- 5 -
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số lý luận cơ bản về sản xuất sản phẩm
* Khái niệm: Sản xuất là quá trình con người sử dụng lao động tác động vào tự
nhiên khai thác hoặc cải tiến các dạng vật chất của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu
của mình để tạo ra sản phẩm.
* Vai trò của sản xuất: Đời sống của xã hội rất phong phú có nhiều hoạt động
khác nhau như: hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật
Trong các hoạt động đó thì hoạt động sản xuất chiếm một vị trí quan trọng tạo ra của cải
vật chất đáp ứng yêu cầu của mỗi con người trong xã hội để từ đó con người tiến hành
các hoạt động khác, nếu không có sản xuất thì con người không thể thực hiện được các
hoạt động khác. Vậy sản xuất là toàn bộ cơ sở của đời sống xã hội, là cơ sở tồn tại và
phát triển của loài người, sản xuất là yêu cầu khách quan của sự tồn tại xã hội.
Quá trình sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội đồng thời là quá trình phát triển
và hoàn thiện bản thân con người. Để sản xuất có kết quả, con người không ngừng
thâm nhập vào tự nhiên, khám phá phát hiện các quy luật của tự nhiên. Lịch sử của xã
hội loài người, nền văn minh nhân loại gắn liền và dựa trên sự phát triển, hoàn thiện
nền sản xuất.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất:
Trong sản xuất để tạo ra sản phẩm chịu tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động của những yếu tố chủ yếu sau:
+ Các yếu tố tự nhiên: đây là điều kiện thời tiết, khí hậu, giao thông, thủy lợi
Các yếu tố này ảnh hưởng trong suốt quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
+ Giá cả và các yếu tố đầu vào: giá cả đầu vào ảnh hưởng đến sản xuất và khả
năng cung ứng sản phẩm ra thị trường. Nếu giá cả đầu vào tăng làm cho giá thành trên
một đơn vị sản phẩm cao lên, do vậy sản xuất sẽ giảm làm cho khả năng cung ứng sản
phẩm ra thị trường giảm xuống.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 6 -
+ Công nghệ sản xuất: là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất
giảm chi phí lao động trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu
mã đẹp, cải tạo công nghệ làm cho cung tăng lên như: thay thế dây chuyền sản xuất, áp
dụng phương pháp mới đầu tư thâm canh sản xuất, đưa các giống mới có năng suất cao
vào sản xuất trong nông nghiệp
+ Chính sách thuế: chính sách thuế của Chính phủ có ảnh hưởng đến quyết định
sản xuất do đó ảnh hưởng đến cung sản phẩm, mức thuế cao sẽ làm giảm cung ra thị
trường và ngược lại.
+ Các yếu tố đầu ra của sản xuất như năng suất, sản lượng, giá bán và hiệu quả
sản xuất ảnh hướng lớn đến quá trình sản xuất cả về mặt lượng đến mặt chất của sản
xuất. Khi năng suất và giá bán cao thì kích thích được sản xuất phát triển, hiệu quả sản
xuất ngày càng cao hơn.
+ Số lượng người sản xuất: số lượng người tham gia vào sản xuất cung ứng sản
phẩm nhiều thì khối lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường lớn và ngược lại nếu số
lượng người tham gia vào sản xuất ít thì khối lượng sản phẩm tạo ra ít từ đó khối
lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường sẽ ít. Chính những điều này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả sản phẩm, tác động đến người sản xuất và khả năng cung ứng sản phẩm
của những năm tiếp theo.
+ Kỳ vọng về giá cả hàng hóa của người sản xuất: người sản xuất mong vào
thời gian tới giá sẽ thay đổi tăng lên từ đó kích thích sản xuất và khả năng cung ứng ra
thị trường sẽ tăng.
+ Dự đoán của người sản xuất về giá cả của các yếu tố đầu vào, đầu ra, nếu
thuận lợi thì việc sản xuất và cung ứng ra thị trường sẽ thuận lợi.
1.1.2. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Sản xuất kinh doanh là một hoạt động mà trong đó mục tiêu chính của nó là làm
sao cho đáp ứng tốt về nhu cầu sản phẩm, chất lượng cũng như dịch vụ đối với xã hội
và người tiêu dùng, mặt khác nó còn nhằm mang lại lợi ích cho nhà sản xuất – kinh
doanh. Bởi vì nếu người tiêu dùng quan tâm đến chất lượng, giá cả của sản phẩm và
dịch vụ thì các nhà sản xuất – kinh doanh lại quan tâm chủ yếu đến lợi nhuận của họ.
Như vậy lẽ dĩ nhiên giữa họ sẽ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Người sản xuất –
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 7 -
kinh doanh muốn có lợi thì tất yếu là phải tiêu thụ được sản phẩm và như vậy cũng có
nghĩa là họ cũng phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng về mặt chất lượng
cũng như giá cả sản phẩm. Vì vậy, lợi ích kinh tế hay nói theo thuật ngữ chuyên môn:
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là điều mà xã hội, chúng ta cần quan tâm.
HQKT là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế.
Nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế có nghĩa là tăng cường trình độ lợi dụng các
nguồn lực sẵn có trong hoạt động kinh tế. Đây chính là một đòi hỏi khách quan của
mọi nền sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất cuộc sống của con người ngày một tăng.
Nói một cách khác thì do yêu cầu của công tác quản lý kinh tế cần thiết phải đánh giá
nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế, và từ đó đã làm xuất hiện phạm
trù HQKT.
Vào những năm 1878, Sapodonicop cùng nhiều nhà kinh tế, nhà khoa học khác
đã tổ chức tranh luận nhiều về vấn đề HQKT. Những phải hơn 30 năm, tức năm 1910
mới bắt đầu có văn bản pháp quy đánh giá HQKT đang được quan tâm nghiên cứu,
phát huy và là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, chính trị học trong nền kinh tế
thị trường. Nhưng để mà nói rõ hơn về vấn đề hiệu quả kinh tế này thì các nhà kinh tế
ở nhiều nước và nhiều lĩnh vực có những quan điểm, cách nhìn khác nhau. Tuy nhiên
ở đây có thể tóm tắt thành ba hệ thống quan điểm như sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng: HQKT được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và các chi phí bỏ ra (như là: các nguồn nhân lực, vật lực, tiền vốn )
để đạt được kết quả đó. Theo quan điểm này thì:
Hay: H =
Trong đó: H: là hiệu quả kinh tế
Q: là kết quả thu được
C: là chi phí bỏ ra
* Hệ thống quan điểm thứ hai cho rằng: HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá
trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Q
CĐạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
- 8 -
Theo quan điểm này thì:
Hiệu quả kinh tế = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra
Hay H = Q – C
* Hệ thống quan điểm thứ ba cho rằng: khác với hai quan điểm trên, quan
điểm này trước tiên là phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữa chi phí và
kết quả sản xuất. Nhưng bên cạnh đó HQKT còn được biểu hiện ở quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ lệ
giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.
Để hiểu rõ hơn về quan điểm này thì ta có:
Phần tăng thêm của kết quả thu được
Hiệu quả kinh tế =
Phần tăng thêm của chi phí bỏ ra
Hoặc: Hiệu quả kinh tế = Phần tăng thêm của kết quả thu được – Phần tăng thêm
của chi phí bỏ ra.
Hay được viết theo công thức:
HQKT = ΔQ - ΔC
Mà: ΔQ = Q1 – Q0
ΔC = C1 – C0
Trong đó: Q1, Q0 là lượng kết quả ở hai kỳ
C1, C0 là lượng chi phí ở hai kỳ
1.1.3. Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Quá trình phát triển của một nền kinh tế thường gắn liền với quá trình của khoa
học kỹ thuật và việc áp dụng chúng vào sản xuất. Bản thân những tiến bộ đó đã chứa
đựng những tính ưu việt, nhưng nó chỉ phát huy được hiệu quả cao khi áp dụng chúng
trong những điều kiện sản xuất thích hợp. Vậy để vận dụng một cách thông minh các
thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất và phấn đấu để đạt HQKT cao trong
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật như là một tất yếu. Mà điều đó có ý nghĩa quan trọng và bức
thiết đối với bền sản xuất của nước ta.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
- 9 -
Với một lượng dự trữ tài nguyên nhất định muốn tạo ra được khối lượng sản
phẩm lớn nhất thì chính là mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất và quản lý. Hay nói
một cách khác là ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm thế nào để có được chi
phí tài nguyên và lao động thấp nhất. Như vậy điều đó chứng tỏ cho ta thấy rằng quá
trình sản xuất là một sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào (input) và đầu ra
(output), nó cũng chính là sự biểu hiện kết quả của các mới quan hệ thể hiện tính hiệu
quả của sản xuất.
Mà ta biết HQKT được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra. Cho nên khi mà xác định HQKT thì nhiều nhà kinh tế ít
nhấn mạnh quan hệ so sánh tương đối (phép chia) mà chỉ quan tâm đến quan hệ tuyệt
đối (phép trừ). Ngoài ra nó còn được biểu hiện bằng giá trị tổng sản phẩm, tổng thu
nhập cũng như lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Tuy nhiên muốn hiểu rõ hơn về nội dung HQKT, thì ta cũng phải cần phân biệt
rõ HQKT với hiệu quả xã hội. Nếu như HQKT là mối tương quan so sánh giữa lượng
kết quả kinh tế đạt được và lượng chi phí bỏ ra thì hiệu quả xã hội là mối tương quan
so sánh giữa kết quả xã hội và tổng chi phí bỏ ra của xã hội. Cho nên HQKT và hiệu
quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù
thống nhất.
Bản chất của HQKT, là nó xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh
tế xã hội nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành
viên trong xã hội. Và để làm rõ hơn bản chất của hiệu quả kinh tế, thì cần phải phân
định sự khác nhau và mối liên hệ giữa “kết quả” và “hiệu quả”.
Kết quả ở đây được hiểu theo là một kết quả hữu ích mà nó do mục đích của
con người tạo nên, được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung, tùy thuộc vào
những trường hợp cụ thể xác định. Do tính mâu thuẫn giữa khả năng hữu hạn về tài
nguyên với nhu cầu tăng lên của con người mà người ta xem xét kết quả đó được tạo
ra như thế nào và chi phí bỏ ra là bao nhiêu, xem có mang lại kết quả hữu ích hay
không. Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ
dừng ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công tác hoạt động sản
xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm đó. Mà chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
là nội dung đánh giá của hiệu quả. Trên phạm vi xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được
Đại
học
Kin
h ế
Hu
ế
- 10 -
kết quả phải là chi phí lao động xã hội. Vì vậy bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả
của lao động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa lượng kết quả hữu
ích thu được với lượng hao phí lao động xã hội, còn mục tiêu của hiệu quả là sự tối đa
hóa kết quả và tối thiểu hóa chi phí trong điều kiện nguồn tài nguyên hữu hạn. Do vậy
mà bất kỳ một nhà sản xuất – kinh doanh nào muốn hoạt động sản xuất thì đều cần
phải xác định 2 yếu tố đó là:
+ Yếu tố đầu vào: đó là chi phí sản xuất, chi phí trung gian, chi phí lao động,
chi phí vốn đầu tư và đất đai.
+ Yếu tố đầu ra (hay là mục tiêu đạt được): nó chính là mục tiêu chung của nền
kinh tế quốc dân cũng như của từng đơn vị sản xuất – kinh doanh (đã được xã hội chấp
nhận). Và các kết quả đạt được chính là những hàng hóa trao đổi trên thị trường như:
khối lượng sản phẩm, giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất cũng như lợi nhuận so với
chi phí bỏ ra.
Song nhìn chung thì khoa học kỹ thuật đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nước ta
vẫn còn thấp và lạc hậu do đó mà các yếu tố tự nhiên còn tác động rất lớn, kể cả tác
động tích cực và tiêu cực. Do đó mà việc xác định các yếu tố đầu vào sẽ gặp những
khó khăn, trở ngại. Vì thế mà khi đánh giá HQKT thì kết quả và chi phí đều dựa trên
cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định hay đôi khi vẫn sử dụng giá trị cố định hoặc
giá kỳ gốc để so sánh các hiện tượng cần nghiên cứu.
1.1.4. Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả kinh tế
Đánh giá hiệu quả kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, giúp biết được mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sản xuất như đất đai, lao động, phân bón từ
đó người dân có thể sử dụng các yếu tố nguồn lực một cách hợp lý để có tạo ra mức
sản lượng tối ưu nhất.
1.1.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất mận tam hoa
1.1.5.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất
+ Tổng giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất do lao động
sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định.
+ Chi phí trung gian (IC): là toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên và dịch
vụ,lao động thuê ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất .
Đại
học
Kin
tế H
uế
- 11 -
+ Giá trị gia tăng (VA): là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí
trung gian của một hoạt động sản xuất kinh doanh.
VA = GO – IC
+ Thu nhập hỗn hợp (MI): đây chính là thu nhập thuần kết quả sản xuất trong
một chu kỳ sản xuất.
MI = VA – Thuế – Khấu hao TSCĐ.
1.1.5.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất
+ Tỷ suất giá trị sản xuất theo chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này
cho biết việc bỏ ra một đồng chi phí trung gian đầu tư thu được bao nhiêu đồng giá
trị sản xuất.
+ Tỷ suất giá trị tăng thêm theo chi phí trung gian (VA/IC): Chỉ tiêu này thể
hiện cứ bỏ ra 1 đồng vốn vào sản xuất thì sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị tăng thêm.
+ Tỷ suất thu nhập hỗn hợp theo chi phí trung gian (MI/IC): chỉ tiêu này
phản ánh trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn trong sản xuất.
+ Thu nhập hỗn hợp bình qu