Hậu quả của sẩy thai là giảm sút sức khoẻ người mẹ, ảnh hưởng tới
nguồn lao động của gia đình và xã hội, thậm trí nguy hiểm đến tính mạng
người mẹ do băng huyết, nhiễm trùng, gây tình trạng vô sinh thứ phát, ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình và chất lượng dõn số .
Nguyên tắc điều trị chủ yếu đối với dọa sẩy thai là để thai phụ nằm
nghỉ tuyệt đối, dùng thuốc giảm co cơ tử cung và nếu tỡm được nguyên nhõn
thì điều trị nguyên nhõn [2], [3].
Chẩn đoán xác định doạ sẩy thai thường không khó khăn. Nhưng việc
xác định tình trạng bào thai, thai cũn sống hay sắp chết để tiên lượng thai
nghén, đánh giá và theo dừi quá trình điều trị, từ đó có thái độ xử trí đúng đắn
thì phải dựa vào cả lõm sàng và cận lõm sàng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu thai nghén
tại Bệnh viện PSTƯ từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2009.” với mục tiêu
sau:
1. Mô tả đặc điểm lõm sàng và cận lõm sàng của doạ sẩy thai 3 tháng
đầu tại BVPSTƯ từ tháng 01-06/2009.
2. Đánh giá kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại BVPSTƯ
từ tháng 01 - 06/2009.
55 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 4427 | Lượt tải: 11
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu thai nghén tại Bệnh viện PSTƯ từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loài người có tớnh sinh sản yếu trong số các loài động vật cao cấp.
Trong suốt quá trình thai nghén, đời sống thai nhi luôn bị đe dọa, trong đó có
sẩy thai.
Sẩy thai là hiện tượng thai bị tống ra khỏi buồng tử cung trước khi thai
có thể sống được. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) – 1977, giới hạn tuổi thai
bị sẩy là dưới 20 tuần hay cân nặng dưới 500gr [2]. Ở Việt Nam , theo chuẩn
quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tuổi thai bị sẩy được tính là dưới 22
tuần theo ngày kinh cuối cùng.
Sẩy thai tự nhiên thường diễn ra qua hai giai đoạn: doạ sẩy và sẩy thực
sự. Ở giai đoạn doạ sẩy thai, trứng còn sống, chưa bị bong khỏi niêm mạc tử
cung. Chẩn đoán và điều trị sớm tiên lượng sẽ tốt, có khả năng giữ được thai.
Ở Việt Nam theo thống kê của Nguyễn Thìn – Thanh Kỳ 1978, tỷ lệ sẩy
thai là 10-12% [13]. Theo Trần Thị Lợi [9] trong 6 tháng đầu năm 2004 có tới
280 trường hợp sẩy thai tự nhiên và 456 trường hợp thai lưu tại BV Từ Dũ.
Tỷ lệ sẩy thai ở các nước phát triển chiếm 6-10% so với tổng số phụ nữ
có thai [13]. Tỷ lệ sẩy thai ở các nước đang phát triển là 10-12% so với tổng
số phụ nữ có thai [13]. Theo Schneider P.F. [53] tỷ lệ doạ sẩy thai ở Mỹ là
13%, Kennon R.W [37] tỷ lệ doạ sẩy thai ở Anh là 15,35%, cũn theo
Beckmann R.B [18] tỷ doạ sẩy thai là 25%.
Sẩy thai lõm sàng chiếm tới 15-20% tổng số thai nghén, cũn sẩy thai
nội tiết (βhCG +) cao hơn (75%). Khoảng 2/3 trường hợp thai bị sẩy trước 6
tuần, cũn lại 1/3 trường hợp sẩy thai ở từ tuần 07 đến 22.
Xác định nguyên nhân doạ sẩy và sẩy thai rất quan trọng, nhưng
thường khó khăn. Ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về phương tiện kỹ thuật,
sự cộng tác của người bệnh nên chẩn đoán muộn.
1
Hậu quả của sẩy thai là giảm sút sức khoẻ người mẹ, ảnh hưởng tới
nguồn lao động của gia đình và xã hội, thậm trí nguy hiểm đến tính mạng
người mẹ do băng huyết, nhiễm trùng, gây tình trạng vô sinh thứ phát, ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình và chất lượng dõn số .
Nguyên tắc điều trị chủ yếu đối với dọa sẩy thai là để thai phụ nằm
nghỉ tuyệt đối, dùng thuốc giảm co cơ tử cung và nếu tỡm được nguyên nhõn
thì điều trị nguyên nhõn [2], [3].
Chẩn đoán xác định doạ sẩy thai thường không khó khăn. Nhưng việc
xác định tình trạng bào thai, thai cũn sống hay sắp chết để tiên lượng thai
nghén, đánh giá và theo dừi quá trình điều trị, từ đó có thái độ xử trí đúng đắn
thì phải dựa vào cả lõm sàng và cận lõm sàng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu thai nghén
tại Bệnh viện PSTƯ từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2009.” với mục tiêu
sau:
1. Mô tả đặc điểm lõm sàng và cận lõm sàng của doạ sẩy thai 3 tháng
đầu tại BVPSTƯ từ tháng 01-06/2009.
2. Đánh giá kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại BVPSTƯ
từ tháng 01 - 06/2009.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ SẨY THAI
1.1.1. Khái niệm
Doạ sảy thai, với triệu chứng ra máu âm đạo trong giai đoạn 20 tuần
đầu tiên của thời kỳ mang thai – là một biến chứng phổ biến nhất của thai
nghén, xảy ra trong khoảng một phần năm số trường hợp có thai [43]. Sảy
thai có khả năng gấp 2,6 lần tỷ lệ nói trên, [43] và 17% trong số các trường
hợp doạ sảy được dự đoán là sẽ có các biến chứng trong giai đoạn muộn hơn
của thời kỳ thai nghén [35].
Theo Charles R.B. Beckmann, tất cả những chảy mỏu từ tử cung trong
nửa đầu của thai kỳ, không có nguyên nhõn thực thể thì đều gọi là doạ sẩy
thai [24].
Sơ đồ diễn biến của sẩy thai:
Có thai
Thai phát triển
bất thường
Doạ sẩy
thai
Bất thường
khác
Thai phát triển
bình thường
Sẩy thai
hoàn toàn
Sẩy thai không
hoàn toàn
Thai chết
lưu
1.1.2. Nguyên nhân
3
Xác định nguyên nhõn doạ sẩy thai là rất quan trọng, nhưng thường
khó khăn. Phải hỏi kỹ tiền sử, khám toàn thõn, khám phụ khoa, kết hợp với
các xét nghiệm cận lõm sàng như huyết học, sinh hoá nội tiết, giải phẫu bệnh
lý tổ chức sẩy, chụp buồng tử cung ngoài thời kỳ có thai, xác định nhiễm sắc
đồ, yếu tố Rh, nhúm mỏu.
1.1.2.1. Nguyên nhõn do thai
Năm 1981, Poland và cộng sự nhận thấy rằng với những thai sẩy có
chiều dài đầu mông khoảng 30mm, tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể là 70%, tỉ lệ
này là 25% nếu chiều dài đầu mông từ 30–180mm.
Những bất thường về phát triển thai nhi được chia làm 2 loại:
- Bất thường về số lượng nhiễm sắc thể: sẩy thai trước tuần thứ 8: đơn
bội (45,X: hội chứng Turner), tam bội (tam bội NST 16: thai trứng bán phần),
tứ bội.
- Số lượng nhiễm sắc thể bình thường: sẩy thai muộn hơn, vào
khoảng tuần thứ 12, tăng đáng kể khi mẹ ≥ 35 tuổi. Các nguyên nhân: đột
biến gen, một số yếu tố của mẹ hay của cha.
Trước đây người ta cho rằng những bất thường nhiễm sắc thể là nguyên
nhân chớnh gõy sẩy thai tự phát và sẩy thai liên tiếp. Trong những năm gần
đây với những nghiên cứu mới về di truyền - tế bào, người ta thấy rằng
nguyên nhân này ngày càng thu hẹp đặc biệt là sẩy thai liên tiếp. Theo
M.H.Howert [33] có khoảng 9,5-15,4% những cặp vợ chồng bị sẩy thai liên
tiếp có NST bất thường.
1.1.2.2.Nguyên nhõn do mẹ
Yếu tố giải phẫu
Những bất thường về giải phẫu ở tử cung gây sẩy thai liên tiếp là
nguyên nhân đã biết rõ. Theo E Malcolm Symonds và E. Ian Symonds (1998)
4
nguyên nhân này chiếm tỷ lệ 15-35% STLT [28]. Ngoài ra yếu tố này còn liên
quan tới sinh non tháng, thai chậm phát triển, ngôi thai bất thường...
Các bất thường về giải phẫu tử cung bẩm sinh bao gồm: tử cung hai
sừng, tử cung đôi, tử cung có vách ngăn, tử cung kém phát triển, tử cung gấp
và ngả sau, hở eo tử cung, bất thường ở động mạch tử cung [26].
Những tổn thương mắc phải cũng gây biến đổi về giải phẫu tử cung
như: u xơ tử cung, dính buồng tử cung, lạc nội mạc tử cung, hở eo tử cung là
nguyên nhân hay gặp trong sẩy thai đặc biệt là STLT.
Yếu tố nội tiết
Những yếu tố nội tiết đề cập tại đây chủ yếu là nội tiết tố sinh dục. Mặc
dù khác bệnh lý nội tiết (đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp trạng...) cũng có
khả năng ảnh hưởng đến tình trạng bệnh lý sẩy thai nhưng nay ít được đề cập
tới do tỷ lệ gặp ít, bằng chứng về mối liên quan không rõ ràng ngoại trừ
những trường hợp bệnh lý nặng do ảnh hưởng tới toàn thân (nhiễm độc giáp
trạng, xuất hiện kháng thể khỏng giỏp rõ rệt) [23].
Theo D. Mushell (1993) yếu tố nội tiết sinh dục được xem là liên quan
nhiều đến sẩy thai là tình trạng thiểu năng hoàng thể [23]; [59]; [57]; [58] Sự
phát triển không đầy đủ của các nang trứng có lẽ là do sự kích thích yếu của
các nội tiết tố hướng sinh dục tuyến yên làm cho hoàng thể không cung cấp
đủ Progesteron, khiến nội mạc tử cung không phát triển đầy đủ để giữ thai.
Các nguyên nhân thiểu năng hoàng thể có thể là:
- Bất thường trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng do thiếu nội tiết tố
hướng sinh dục FSH, tăng tiết Prolactin, LH [47], [58].
- Sự tăng cao nội tiết tố nam như Testosterone, đặc biệt là
Dehydroepiandrosteron (DHEA). Các nội tiết tố nam tăng cao vừa tác động
5
làm thoái triển hoàng thể vừa tác động ức chế sự phát triển của nội mạc tử
cung. Biểu hiện của sự tăng cao nội tiết tố nam thường là chứng rậm lông ,
mụn trứng cá, thiểu kinh hay vô kinh.
Chẩn đoán tình trạng thiểu năng hoàng thể có thể dựa vào các yếu tố sau:
- Theo dõi biểu đồ thân nhiệt: nhiệt độ tăng ít ở pha hoàng thể, dạng
biểu đồ có hình thấp hay thời gian tăng nhiệt độ ngắn hơn 10 ngày, gợi ý thiểu
năng hoàng tuyến [47].
- Nồng độ Progesteron huyết thanh thấp, thường <10ng/ml
- Sinh thiết nội mạc tử cung thấy hình ảnh tăng sinh tuyến và chế tiết ít
- Siêu âm thấy niêm mạc tử cung mỏng (< 5mm)
Yếu tố nhiễm khuẩn
Một tình trạng nhiễm trùng dù tác nhân là vi khuẩn, siêu vi, ký sinh
trùng hay nấm đều có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Viêm màng ối, thường
là hậu quả của nhiễm trùng ngược dòng từ viờm õm đạo hay viêm cổ tử cung
đi lên là một nguyên nhân gây sẩy thai muộn trong 3 tháng giữa thai kỳ. Tỡnh
trạng sốt cao > 390C trong các nhiễm trùng cấp tính là yếu tố có thể gây dị
dạng thai và có hại cho bào thai. [60]; [61].
Virus: Herpes simplex : tăng tỉ lệ sẩy thai nếu bị nhiễm Herpes sinh dục
trong nửa đầu thai kỳ hoặc có thai trong vòng 18 tháng sau khi bị nhiễm.
Vi trùng: Mycoplasma hominis, Ureaplasma urealyticum: đó cú bằng
chứng về huyết thanh cho thấy có gây ra sẩy thai, vì vậy có tác giả điều trị
bằng Erythromycin tỷ lệ thành công đạt tới 85%.
Những tác nhân khác như Toxoplasma gondii, Listeria monocytogenes,
Chlamydia trachomatis: chưa kết luận được có phải là nguyên nhân gây ra sẩy
thai hay không.
6
Các yếu tố khác
* Yếu tố miễn dịch:
Nghiên cứu miễn dịch học về quá trình mang thai đã chỉ ra rằng hoạt
động của hệ thống miễn dịch ở phụ nữ mang thai là quá trình hoạt động phức
tạp, thay đổi theo từng giai đoạn của thai kỳ. Người ta nhận thấy rằng trong
quá trình thai nghén của sự biến đổi song hành của hai hệ thống:
Một là thay đổi hệ thống miễn dịch theo chiều hướng hỗ trợ, kích thích
cho sự phát triển của tử cung, rau thai thuận lợi cho trứng đã thụ tinh có điều
kiện làm tổ và phát triển sau này. Trong chiều hướng này có vai trò quan
trọng của các bạnh cầu đơn nhân và các tế bào lympho thông qua các cytokin
mà chúng ta sản xuất ra.
Hai là biến đổi của hệ thống miễn dịch người mẹ theo chiều hướng ức
chế phản ứng thải loại giúp duy trì, tồn tại của thai trong tử cung như một mụ
ghộp [41].
Hiện nay, yếu tố tự miễn có liên quan nhiều và cũng đề cập nhiều nhất
trong sẩy thai là kháng thể kháng Phospholipid (Anti phospholipid Antibodies –
APA). Trong nghiên cứu thực nghiệm, Branch D.W và cs sử dụng kháng thể
IgG kháng Phosphotidylserin tiêm cho chuột mang thai thì thấy tăng tỷ lệ sẩy
thai hay thai chậm phát triển, trọng lượng bánh rau thấp [21].
Bệnh lý tự miễn: Bất đồng nhóm máu Rh, OAB giữa mẹ và con: càng
đẻ lần sau nguy cơ càng tăng rất cao [14]
Bệnh lý tự miễn của mẹ như lupus, viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ,
xơ cứng bì.
*Bệnh lý toàn thân của mẹ: Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, bệnh thận, bệnh
chuyển hoá: đái tháo đường, cường giáp, suy giáp... đều có thể gây sẩy thai.
7
* Tuổi mẹ: ≥ 35 tuổi, đặc biệt >37 tuổi.
* Môi trường: Tiếp xúc thường xuyên với các độc tố như chì, thuỷ ngân,
ethylene oxide , dibromochloropropane trong môi trường trong công việc
hàng ngày làm tăng nguy cơ sẩy thai.
*Nghiện rượu, ma tuý, thuốc lá, caffeine có liên quan đến nguy cơ sẩy thai
Dùng hai ly thức uống có cồn hàng ngày làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy
thai so với phụ nữ không sử dụng thuốc có cồn .
Hút thuốc trờn ẵ gúi mỗi ngày hoặc hít khói thuốc lá nhiều làm tăng
nguy cơ sẩy thai.
Chồng nghiện rượu và thuốc lá làm tăng nguy cơ sẩy thai.
Đối với caffeine, chỉ khi nào dựng trờn 300mg/ngày mới có nguy cơ
sẩy thai.
* Thuốc sử dụng trong thai kỳ: Một số thuốc có thể gây độc cho thai và làm
chết thai.
* Hoạt động thể lực vừa phải không ảnh hưởng đến tiên lượng thai kỳ trên
phụ nữ khoẻ mạnh. Tuy nhiên các hoạt động thể lực với cường độ cao như
chạy bộ, aerobic... có thể ảnh hưởng tới thai kỳ do sự dịch chuyển một phần
lưu lượng máu từ tử cung đến các cơ ngoại biên.
* Chấn thương trực tiếp vào vùng bụng, phẫu thuật,hoặc do thủ thuật chọc dò
ối qua thành bụng để sinh thiết gai rau có thể gây sẩy thai.
1.1.2.3.Nguyên nhõn do bố
Đảo đoạn nhiễm sắc thể có thể gây sẩy thai. Kulcsar và cộng sự (1991)
tìm thấy có Adenovirus và Herpes simplex virus ở tinh dịch những người vô
sinh nam và trong mô sẩy thai.
1.1.2.3.Nguyên nhõn do phần phụ
8
Bất thường bánh rau, dây rốn như hoại thư bánh rau, dây rốn chỉ có một
động mạch.
* Ngoài ra có khoảng 20-30% các trường hợp sẩy thai mà không có nguyên nhân
rõ ràng [1].
1.3. CÁC HÌNH THÁI LÂM SÀNG SẨY THAI
1.3.1. Doạ sẩy thai:
Được gọi là doạ sẩy thai khi có triệu trứng ra máu âm đạo trước tuần lễ
thứ 20 của thai kỳ [1].
Trong giai đoạn này trứng còn sống, chưa bị bong ra khỏi niêm mạc tử
cung. Điều trị sớm, tiên lượng tốt, có khả năng giữ được thai.
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo số lượng ít, màu đỏ hay đen, thường lẫn với dịch nhày.
- Có thể kèm theo triệu chứng nặng bụng dưới hay đau lưng
Khám âm đạo:
Âm đạo cú ớt mỏu. Cổ tử cung còn dài, đóng kín. Thân tử cung to
tương ứng với tuổi thai.
1.3.2. Sẩy thai thực sự
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo nhiều đỏ tươi, loãng lẫn máu cục chứng tỏ rau đã bong
nhiều.
- Đau bụng: đau bụng vùng hạ vị, từng cơn, đều hơn do cơn co tử cung.
Khám âm đạo:
Cổ tử cung xoá mỏng và hé mở. Phần dưới tử cung phình to do bọc thai
bị đẩy xuống phía cổ tử cung làm cổ tử cung có hình như con quay. Đôi khi
sờ thấy bọc thai nằm ở lỗ cổ tử cung.
1.3.3. Cách sẩy thai Cách sẩy thai
Sẩy thai hai tháng đầu:
9
Ở thời kỳ này túi thai chỉ to bằng trứng chim cút trong đó cú phụi, bên
ngoài bao bọc các gai rau, vì thế khi sẩy thai thường diễn biến thành một thì
cả bọc lẫn máu, ít khi bị sót rau và mỏu khụng ra nhiều.
Sẩy thai tháng thứ 3 và 4:
Thời kỳ này trong túi thai đã hình thành thai nhi. Khi sẩy thường diễn
biến thành ba thỡ: thỡ đầu là thai, thì hai là rau, thì ba là ngoại sản mạc. Vì
vậy, dễ bị sót ra và chảy máu nhiều.
Sẩy thai muộn sau 18 tuần:
Sẩy thai diễn ra như đẻ: thì đầu thai ra, thì sau là rau và màng rau.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ VÀ XÉT NGHIỆM
1.4.1. Siêu âm
Siêu âm trong sản phụ khoa rất có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi
điều trị sẩy thai. Là phương pháp thăm dò không xâm nhập, sử dụng tiện lợi,
đơn giản, giá thành rẻ nên được áp dụng rộng rãi. Có thể siêu âm đường bụng
hoặc siờu õm đường âm đạo.
Siêu âm cho thấy thai phát triển bình thường:
- Hình ảnh túi thai có thể thấy được ở tuổi thai 4 - 4,5 tuần tính theo ngày
kinh cuối qua siêu âm đường âm đạo và tuần thứ 6 qua siêu âm đường
bụng. Túi thai là một vòng tròn phản âm trống được viền một lớp phản
õm sỏng nằm trong lớp màng rụng của nội mạc tử cung, lệch một bên
so với đường giữa lòng tử cung. Đường kính trung bình của túi thai
tăng đôi sau 1 tuần. Thai 5 tuần kích thước túi thai khoảng 5mm, thai 6
tuần: 10mm; thai 7 tuần: 20mm.
- Tỳi noãn hoàng thấy được ở tuổi thai 5 - 5,5 tuần, là một vòng tròn đều
trống âm, bờ mỏng, nằm ngoài buồng ối trong khoang ngoài thai. Mỗi
khoang ối chỉ có một tỳi noón hoàng, do đó số lượng tỳi noón hoàng sẽ
được dùng để tính số lượng túi ối trong trường hợp đa thai. Kích thước
10
tỳi noón hoàng 2 - 8mm (không quá 10 mm). Tỳi noón hoàng xuất hiện
chứng tỏ thai sống.
- Phôi thai thấy rõ ở tuổi thai 6-6,5 tuần. Hình ảnh phôi là âm vang đậm
đặc, nằm trong buồng ối. Khi phôi thai đo được 5mm nếu không có
hoạt động của tim thai có nghĩa là thai đã chết. Phôi phát triển theo tuổi
thai, lần lượt chúng ta có thể quan sát thấy: cực đầu, cực đuôi, mầm chi
và cử động của phôi.
Theo dõi sự xuất hiện và phát triển của túi ối, tỳi noón hoàng, phôi thai,
hoạt động tim thai ta có thể chẩn đoán thai sớm, thai còn sống và phát triển
bình thường không, qua đó tiên lượng thai nghén và đánh giá kết quả điều trị.
Siêu âm có thể phát hiện sự ngừng phát triển của thai trước khi có dấu
hiệu lâm sàng. Những dấu hiệu thai có tiên lượng xấu: (Siêu âm sản khoa thực
hành -2007, tr 9-14)
- "Trứng trống”: chỉ có túi thai mà không có phôi thai do thai không phát
triển ngay từ sớm hoặc có phát triển nhưng đã chết và phân huỷ.
• Túi thai ≥10mm khi SA qua đường âm đạo hoặc >20mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy tỳi noón hoàng [44].
• Túi thai ≥18mm khi SA qua đường ÂĐ hoặc >25mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy phôi thai.
- Tỳi noãn hoàng có hình dạng không tròn đều, bờ dầy hoặc calci hoá,
kích thước quá lớn hoặc quá nhỏ đều là những dấu hiệu bất thường.
[29], [39].
- Có túi ối nhưng không có phôi thai
- Túi thai múp mộp hoặc có hình “giọt nước”.
- Lớp rụng kém phát triển: mỏng và phản õm khụng mạnh.
- Xuất huyết quanh túi thai, búc tỏch bỏnh rau >50%. Tuổi thai càng nhỏ
khả năng sẩy sẽ càng cao [27], [47], [46].
11
Kích thước tương đối khối xuất huyết được tính theo công thức: dài
(cm) x rộng (cm) x cao(cm) x 0,5. Nếu khối lượng <1/4 túi thai và <
60ml thì thai có nhiều khả năng thai sẽ tiếp tục phát triển [52].
90% trường hợp có xuất huyết quanh túi thai khối lượng ít và tim thai
nhi hoạt động với nhịp tim bình thường sẽ tiếp tục tiến triển tới cuối
thai kỳ.
- Túi ối lớn theo công thức: Kích thước túi ối - Chiều dài đầu mông >
8mm cũng thường gặp ở những thai ngừng phát triển [32].
- Thiểu ối sớm: túi ối nhỏ so với phôi thai.
- Túi thai nằm thấp trong buồng tử cung.
- Thai ngừng phát triển (thai chết): nếu có phôi thai nhưng không có hoạt
động của tim thai nhi.
Tuy nhiên, khi có dấu hiệu nghi ngờ, siêu âm kiểm tra lại sau 5-7 ngày
nếu thấy các dấu hiệu: Khối máu tụ giảm kích thước, nhịp tim thai bình
thường đều, các số đo tăng theo đúng mức phát triển thai bình thường thì đó
là những dấu hiệu tiến triển tốt.
1.4.2. Định lượng βhCG
βhCG được chế tiết chủ yếu từ các tế bào lỏ nuụi nờn hàm lượng của
nó phản ánh chức năng hoạt động của lỏ nuụi trong giai đoạn sớm của thai kỳ.
Định lượng βhCG có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi sự phát triển của thai,
nó cú độ nhạy và độ đặc hiệu cao [Nguyễn Việt Hùng -1999]
βhCG có thể xuất hiện trong máu và nước tiểu chỉ 8 đến 9 ngày sau thụ
tinh, khi các dấu hiệu lâm sàng chưa xuất hiện [Phan Thị Minh Đức – 2001]
Nồng độ của βhCG trong thai nghén bình thường: [22]
Tuổi thai tính từ kinh cuối cùng
Nồng độ βhCG huyết thanh
(mUI/ml)
Tuần thứ 3 đến tuần thứ 4 9- 130
12
Tuần thứ 4 đến tuần thứ 5 75- 2.600
Tuần thứ 5 đến tuần thứ 6 850- 20.800
Tuần thứ 6 đến tuần thứ 7 4.000- 100.000
Tuần thứ 8 đến tuần thứ 10 50.000- 100.000
Thời gian tăng gấp đôi trong thai nghén bình thường:
Thai phát triển bình thường sau 48 giờ nồng độ βhCG tăng từ 1,4 đến 2
lần so với nồng độ lúc ban đầu nghĩa là ≥66%.
Pittaway [50] đã phát hiện được hCG trong máu mẹ sau khi phúng
noón từ 7 đến 10 ngày. Ông đã đưa ra một công thức tính thời gian tăng gấp
đôi (TGTGĐ) hCG như sau:
Log2hCG khoảng cách thời gian giữa các ngày
TGTGĐ =
hCG 1
Log 2
hCG 2
hCG 1: Lượng hCG xét nghiệm lần 1
hCG 2: Lượng hCG xét nghiệm lần 2
Kadar đã đưa ra một công thức tính đơn giản hơn:
Nồng độ hCG ở 48 giờ - Nồng độ hCG ban đầu
TGTGĐ = x 100 x
100
Nồng độ hCG lúc ban đầu
Trong thai nghén bình thường thời gia tăng gấp đôi hCG từ 36-48 giờ.
Tỷ lệ tăng ít nhất là 66%. Nếu tăng quá cao hoặc quá thấp hoặc không tăng là
biểu hiện của một thai nghén không bình thường.
Pittaway [50] khẳng định rằng: quy luật tăng gấp hai chỉ đúng khi thai
được 6 tuần tuổi. Khi tuổi thai trên 6 tuần và nồng độ hCG lớn hơn 6.000-
10.000mUI/ml thì hCG tăng chậm hơn và không ổn định.
13
Theo Phạm Thị Thanh Hiền [6] chẩn đoán sớm chửa ngoài: Lâm sàng
(chậm kinh, đau bụng hạ vị, ra máu âm đạo) + Nồng độ βhCG huyết thanh <
1500IU/l, độ nhạy : 88%, giá trị chẩn đoán dương tính: 97,5%;
Theo H.M. John (1994) kết hợp giữa siêu âm và định lượng βhCG là
phương pháp tốt nhất theo dõi sự phát triển của thai. Nếu siêu âm có hình ảnh thai
tiếp tục phát triển, βhCG tăng thì được coi là tiên lượng tốt. [62]. Nếu βhCG
giảm, qua siêu âm thai không phát triển nữa thì tiên lượng xấu.
1.4.3. Thăm dò tế bào nội tiết âm đạo
Niêm mạc âm đạo bao gồm nhiều lớp tế bào. Từ sâu ra nụng cú 4 lớp:
- Lớp C1: là lớp tế bào đỏy sõu.
- Lớp C2: là lớp tế bào đỏy nụng.
- Lớp C3: là lớp tế bào giữa.
- Lớp C4: là lớp tế bào bề mặt.
Các lớp tế bào này phát triển dưới ảnh hưởng của hai hormon chính
estrogen và progesteron. Bình thường tác động của hai hormon cân bằng, nếu
tác động của hormon progesteron giảm đi thì tác động của estrogen trội lên sẽ
ảnh hưởng đến sự phát triển và biệt hoá của các lớp tế bào bề mặt cảm thụ với
hormon đó. Tỷ lệ tế bào bề mặt bong ra nhiều hay ít sẽ phản ánh hoạt động
của hormon estrogen nhiều hay ít từ đó có thể suy ra hoạt động của
progesteron.
Hai chỉ số phản ánh hoạt động của estrogen