Đề tài Đánh giá, nhận xét chính sách dân số Đà Nẵng

- Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng cũng luôn cao hơn so với bình quân cả nước. Xu hướng chênh lệch giữa tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng và toàn quốc ngày càng tăng qua các thời kỳ. Trong 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng là 2,62%. - Mật độ dân số đạt 740 người/km². Đà Nẵng đứng thứ 13 về mật độ so với các tỉnh, thành phố trong cả nước -Về tình hình phân bố dân cư: Có sự chuyển biến rõ rệt qua lại giữa hai khu vực thành thị và nông thôn. Tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn ở Đà Nẵng giảm dần qua các năm. Hiện nay Đà Nẵng có dân số sống tại thành thị đạt gần 828.700 người, dân số sống tại nông thôn đạt 123.000 người. Điều này chứng tỏ quá trình đô thị hoá ở Đà Nẵng diễn ra ngày càng nhanh trong nhưng năm gần đây. - Về giới tính: Cơ cấu dân số của Thành Phố Đà Nẵng tương đối ổn định, không có biểu hiện của chênh lệch giới tính. Tỷ lệ giới tính hiện nay là 96,8 nam/100 nữ, tỷ lệ giới tính khi sinh là 111 nam/100 nữ mặc dù hiện tại dân số nữ lớn hơn dân số nam. Dân số nam của thành phố đạt 469.400 người, trong khi đó nữ đạt 482.300 người. - Dự tính với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Đà Nẵng sẽ đạt 1 triệu dân vào đầu năm 2014 và 1,1 triệu dân vào đầu năm 2018.

doc6 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5130 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá, nhận xét chính sách dân số Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Đánh giá, nhận xét chính sách dân số Đà Nẵng I. Tình hình chung dân số Đà Nẵng -Thành phố Đà Nẵng được xem là thành phố trẻ, công nghiệp sôi động là trung tâm kinh tế xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Chính vì vậy mà dân số Đà Nẵng trong những năm qua không ngừng tăng lên. -Theo số liệu điều tra của cục thống kê Thành Phố Đà Nẵng cho thấy: Năm 2001 dân số Thành Phố Đà Nẵng là: 728.834 người đến năm 2004 là 763.297 người, và đến năm 2011 dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt gần 951.700 người. - So sánh tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm giữa Đà Nẵng và toàn quốc. Giai đoạn 1979-1989 1989-1999 1999-2009 Đà Nẵng 2.36% 2.31% 2.62% Toàn quốc 2,1% 1,7% 1,2% - Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng cũng luôn cao hơn so với bình quân cả nước. Xu hướng chênh lệch giữa tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng và toàn quốc ngày càng tăng qua các thời kỳ. Trong 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của Đà Nẵng là 2,62%. - Mật độ dân số đạt 740 người/km². Đà Nẵng đứng thứ 13 về mật độ so với các tỉnh, thành phố trong cả nước -Về tình hình phân bố dân cư: Có sự chuyển biến rõ rệt qua lại giữa hai khu vực thành thị và nông thôn. Tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn ở Đà Nẵng giảm dần qua các năm. Hiện nay Đà Nẵng có dân số sống tại thành thị đạt gần 828.700 người, dân số sống tại nông thôn đạt 123.000 người. Điều này chứng tỏ quá trình đô thị hoá ở Đà Nẵng diễn ra ngày càng nhanh trong nhưng năm gần đây. - Về giới tính: Cơ cấu dân số của Thành Phố Đà Nẵng tương đối ổn định, không có biểu hiện của chênh lệch giới tính. Tỷ lệ giới tính hiện nay là 96,8 nam/100 nữ, tỷ lệ giới tính khi sinh là 111 nam/100 nữ mặc dù hiện tại dân số nữ lớn hơn dân số nam. Dân số nam của thành phố đạt 469.400 người, trong khi đó nữ đạt 482.300 người. - Dự tính với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Đà Nẵng sẽ đạt 1 triệu dân vào đầu năm 2014 và 1,1 triệu dân vào đầu năm 2018. II. Các chính sách về dân số của thành phố Đà Nẵng 1.Quan niệm về chính sách dân số Chính sách dân số bao gồm những chính sách, chủ trương có liên quan đến con người, đến sự vận động dân số, bao gồm mục tiêu và hệ thống các biện pháp của Nhà nước để điều tiết dân số. Chính sách dân số liên quan đến việc tái tạo và hoàn thiện dân cư. Chính sách dân số phải xác định được những mục tiêu, chỉ ra được những giải pháp hữu hiệu để đảm bảo sự thực hiện mục tiêu đó. 2. Mục tiêu chính sách dân số Mục tiêu của chính sách dân số Việt Nam nói riêng cũng như Đà Nẵng nói chung là nhằm giảm tỷ lệ phát triển dân số và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đảm bảo số lượng công dân và mật độ dân số của thành phố không vượt quá so với ngưỡng chịu đựng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ xã hội; tăng số lượng công dân có chất lượng và trình độ cao cho thành phố; nhưng đồng thời dân cư không tập trung quá đông đúc ở khu vực trung tâm thành phố, và không thu hút quá lớn lượng dân cư từ các tỉnh, thành phố lân cận. Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa,hiện đại hóa, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. 3. Thực hiện chính sách dân số - Thực hiện chính sách DS_KHHGĐ với các nội dung quan trọng : về việc sinh đẻ có hướng dẫn;về công tác hướng dẫn sinh đẻ; về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch;về việc chuyển giao quản lý công việc đặt vòng tránh thai do Bộ Y tế phụ trách; về đẩy mạnh cuộc vận động kinh tế - xã hội; Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược dân số - Kế hoạch hóa gia đình. -Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, gia đình ít con : Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến hai con. - Để thực hiện mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số.chính quyền thành phố đã tiến hành bằng cách: giảm tỷ lệ sinh hàng năm , đồng thời tìm mọi cách hạ thấp tỷ lệ chết, tăng tuổi thọ người dân. - Để giảm tỷ lệ sinh, chính sách dân số tăng cường áp dụng các biện pháp tránh thai, giảm nạo, phá thai. - Giảm mất cân bằng giới tính khi sinh (Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức) - Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu rõ về chủ trương, chính sách về phân bổ dân cư của thành phố. - Kiềm chế tốc độ tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học nếu vượt quá tiêu chí định mức cho phép; sử dụng hiệu quả nguồn lao động. - Đẩy mạnh nghiên cứu thành phần dân cư, cơ cấu lao động hiện nay để có phân loại, dự báo các đối tượng với nguyện vọng về cuộc sống mới để có chính sách ưu đãi, khuyến khích hay hạn chế. -Thực hiện chính sách phân bổ dân cư: +Thay đổi kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội :Đối với khu dân cư cũ chỉ tổ chức lại và tăng cường năng lực phục vụ để đáp ứng. Đối với khu dân cư mới thì phải có quy hoạch, kế hoạch định hướng rõ ràng; Nghiên cứu để xây dựng các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp ở phía xa trung tâm về phía Tây, Nam và Tây Nam để hạn chế tối đa các dòng người nhập cư vào trung tâm, tìm cách giãn dân ra các khu vực ngoại ô của thành phố; Chuyển một số cơ sở sản xuất, dịch vụ, cơ quan, các trường dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học ra khỏi trung tâm thành phố và các quận có mật độ dân số cao. + Đẩy mạnh phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất : Tạo lập môi trường kinh doanh và đầu tư thông thoáng…nhằm tạo ra nhiều việc làm cho xã hội; Quy hoạch các ngành nghề sản xuất ra khỏi trung tâm thành phố để hình thành các cụm sản xuất, các khu công nghiệp… với mục đích thu hút lao động tại chỗ. + Giãn dân tự nhiên thông qua chính sách đòn bẩy : Khuyến khích cư dân nội thị dãn ra ngoại ô bằng các ưu đãi về việc làm, phúc lợi công cộng; Đối với đô thị trung tâm: nghiên cứu đề xuất chênh lệch hợp lí các mức phí dịch vụ công như giao thông, điện, nước, vệ sinh môi trường, giáo dục... so với mặt bằng chung của toàn thành phố, để có thể làm giảm động lực nhập cư vào khu vực đông đúc này. + Quản lý chặt chẽ đăng ký thường trú, tạm trú, nhập cư: Quản lý nghiêm và chặt chẽ việc nhập khẩu vào các quận trung tâm thành phố, đảm bảo đúng Luật Cư trú, không để xảy ra tình trạng nhập cư trái phép. Có biện pháp quản lý chặt chẽ việc đăng ký hộ khẩu thường trú, đăng ký tạm trú, tạm vắng; Tăng cường công tác kiểm tra hành chính để kiểm soát số người nhập cư trái phép vào thành phố; Quản lý chặt các khu nhà ở cho thuê phòng trọ trên địa bàn khu vực quận trung tâm, đảm bảo đáp ứng quy định diện tích tối thiểu/ đầu người, và các điều kiện vệ sinh, và tăng cường hiệu lực thi hành các quy định này, nhằm hạn chế tập trung số lượng đông người nhập cư thuê nhà ở ở khu vực quận trung tâm thành phố. - Kiềm chế tốc độ tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học nếu vượt quá tiêu chí định mức cho phép; sử dụng hiệu quả nguồn lao động. - Đẩy mạnh nghiên cứu thành phần dân cư, cơ cấu lao động ở nội thành hiện nay để có phân loại, dự báo các đối tượng với nguyện vọng về cuộc sống mới để có chính sách ưu đãi, khuyến khích hay hạn chế. -Kế hoạch hóa dân số: +Theo kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2015 tại Đà Nẵng, quy mô dân số dưới hoặc bằng 1,2 triệu người, trong đó lượng dân số, chất lượng nguồn lực phải bảo đảm đáp ứng được nhu cầu của thành phố trẻ. Để đạt được điều đó, những năm qua, cả hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở đã vào cuộc quyết liệt, qua đó nâng cao nhận thức của người dân chấp nhận thực hiện chính sách dân số, các dịch vụ chăm sóc-kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) cũng được nâng lên rõ rệt… + Để nâng cao chất lượng dân số, chính quyền thành phố đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách cụ thể, bám sát thực tế ở địa phương. Một trong những giải pháp được triển khai trong năm 2013 là chú trọng tuyên truyền về sàng lọc trước sinh và sơ sinh, triển khai khám sàng lọc trước sinh và sơ sinh tại cộng đồng, đồng thời triển khai đồng bộ chăm sóc người cao tuổi. III. Đánh giá -Công tác DS - KHHGĐ đã được tổ chức, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình luôn được coi trọng và triển khai thực hiện quy mô và đồng bộ trên phạm vi cả nước. -Chính sách DS-KHHGĐ bao gồm đầy đủ các nội dung, những chủ trương, biện pháp, hướng dẫn, quy định để hoàn chỉnh và toàn diện về tất cả các vấn đề. Từ điều chỉnh quy mô dân số, thực hiện gia đình có 1 hoặc 2 con, thực hiện KHHGĐ và khuyến khích sử dụng biện pháp tránh thai, hạn chế nạo, phá thai; điều chỉnh cơ cấu dân số, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; bảo vệ các dân tộc thiểu số; thực hiện phân bố dân cư hợp lý; đến vấn đề nâng cao chất lượng dân số; kiểm tra sức khoẻ di truyền và sức khoẻ trước khi kết hôn; sàng lọc trước sinh và sơ sinh. -Thực hiện tuyên truyền, vận động và giáo dục về DS-KHHGĐ, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, và kế hoạch hoá gia đình.Đại bộ phận người dân qua công tác tuyên truyền, vận động đã có ý thức cao hơn trong việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, duy trì quy mô gia đình vừa phải. - Việc tổ chức, phối hợp thực hiện công tác dân số giữa các cơ quan nhà nước, đòan thể nhân dân và tổ chức, cá nhân đã đem lại hiệu quả. Ý thức của đại bộ phận nhân dân về công tác sinh đẻ có kế hoạch đã được nâng cao, và quá trình thực hiện đã thực sự đạt được hiệu quả. Tỷ lệ gia tăng dân số ngày càng giảm dần, tốc độ gia tăng dân số đã dần đạt đến mức ổn định. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở cho thấy, Đà Nẵng đang ở trong thời kỳ “ cơ cấu dân số vàng”, mở ra tiềm năng to lớn để đưa thành phố bước vào thời kỳ phát triển ổn định. Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng, và đó là thành quả rất lớn từ công tác vận động, tuyên truyền và nâng cao ý thức cho người dân. - Chúng ta xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên trách và những cộng tác viên làm công tác dân số đông về số lượng và giỏi về chuyên môn, luôn tận tâm, nhiệt tình, năng nổ trong công việc. Họ chính là những người chuyển tải được các chủ trương, chính sách của Nhà nước về công tác dân số đến với mọi người dân. II. NHẬN XÉT 1.Những thành tựu đã đạt được - Về giảm sinh: Tỷ suất sinh thô giảm xuống xấp xĩ 15‰; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên từ 10,2% năm 2003 giảm xuống còn 7,6% năm 2012; tổng tỷ suất sinh giảm xuống dưới 2 con và đạt mức sinh thay thế kể từ năm 2004. - Về Kế hoạch hóa gia đình: Tỷ lệ phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) chấp nhận thực hiện các biện pháp tránh thai kể từ năm 2005 luôn đạt ở mức xấp xĩ 75%. Trong số đó, tỷ lệ sử dụng tránh thai hiện đại ngày càng tăng, đến năm 2012 đạt ở mức 96,2%. - Về cơ cấu dân số: Tỷ số giới tính khi sinh được kiểm soát khá tốt, năm 2003 tỷ số giới tính khi sinh ở mức 109,4 trai/gái (cao hơn mức chuẩn) đã giảm xuống còn 104 trai/gái vào năm 2012 (xấp xĩ mức chuẩn) và không để xẩy ra hiện tượng mất cân bằng giới tính trên phạm vị thành phố. -Về phân bổ dân cư:. Thành phố đã thực hiện quy hoạch lại dân cư thông qua cá dự án, chương trình, kể hoach tổng thể về kinh tế-xã hội nên việc phân bổ dân cư đã có nhiều tiến bộ, thể hiện qua tỷ trọng dân số ở quận trung tâm đã giảm dần và các quận, huyện ngoại thành tăng lên qua các năm. - Về chất lượng dân số: Chất lượng dân số thành phố đã cải thiện đáng kể được thể hiện qua các chỉ tiêu như: tuổi thọ bình quân của dân số từ 71,2 tuổi năm 1999 đã tăng lên 75,9 tuổi vào năm 2009; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 23,6% năm 2003 xuống còn 5,4% năm 2012; tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm xuống còn 4,52% và đặc biệt tỷ suất chết mẹ giảm rất nhanh và đến nay không có trường hợp chết mẹ do thai sản. 2.Những tồn tại cần được khắc phục Tuy vậy trong quá trình thực hiện chính sách dân số cũng tồn tại một số điểm bất cập sau - Việc thực hiện chính sách bị tác động mạnh bởi tâm lý của người dân như mức sinh tăng rõ hơn vào những năm đẹp (“heo vàng”, “rồng vàng”, “nam Nhâm”, “nữ Quý”) hoặc giảm mạnh vào những năm được cho là không thuận lợi (Canh Dần)” - Một số lãnh đạo chính quyền, đơn vị chưa nhận thức đúng mức tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của công tác dân số, dẫn đến sự thiếu quan tâm, thiếu quyết tâm chỉ đạo, đầu tư không đúng mức cho công tác DS-KHHGĐ. Một số thuật ngữ dùng trong các hệ thống văn bản đôi khi không thống nhất, dẫn đến sự hiểu nhầm hoặc cố tình hiểu nhầm trong một bộ phận cán bộ và nhân dân và thực hiện không đúng theo ý muốn của các cơ quan ban hành. - Chưa có chế tài bắt buộc thực hiện các quy định về kiểm tra sức khỏe trước hôn nhân đối với người dân nên trong thực tế, việc thực hiện các quy định này vẫn còn ở mức tuyên truyền, vận động và mang tính cá nhân, tự nguyện… - Hơn nữa, các chính sách dân số luôn thay đổi qua các năm, nhưng việc thay đổi chỉ là hình thức, không theo sát với tình hình thực tế. -Nhìn chung, việc triển khai thực hiện chính sách dân số đã được thực hiện và được sự quan tâm,chỉ đạo sát xao từ phiá các nhà lãnh đạo. Nhưng đôi khi, đó chỉ là sự chỉ đạo từ cấp trung ương, còn việc thực hiện từ phía cơ sở còn rời rạc và mang tính hình thức. - Một đội ngũ đông đảo cán bộ nước ta làm công tác dân số.Họ cũng được hưởng lương, chế độ đãi ngộ nhưng rất nhiều cán bộ cơ sở lại không có chuyên môn nghiệp vụ.Cán bộ dân số cần phải là người có chuyên môn, nghiệp vụ,có khả năng thuyết phục người dân, nói dân nghe, bảo dân làm, nhưng cán bộ cấp cơ sở thường không có được điều đó. Họ có lòng nhiệt tình, có sự tận tâm nhưng không có kiến thức vững vàng, vì thế quá trình truyền đạt chủ trương cho người dân gặp rất nhiều khó khăn, đôi khi còn sai kiến thức… -Một vấn đề mới xuất hiện trong công tác dân số là tỷ số giới tính khi sinh đã tăng nhanh, nếu không có giải pháp tích cực, sự mất cân bằng giới tính sẽ để lại những hệ lụy nặng nề, tác động xấu đến trật tự, an ninh xã hội. Cơ cấu dân số đã chuyển từ cơ cấu "dân số trẻ" sang giai đoạn cơ cấu "dân số vàng" và bắt đầu bước vào giai đoạn "già hóa dân số". Các mô hình "tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân", "Sàng lọc và chẩn đoán trước sinh, sàng lọc và chẩn đoán sơ sinh" để nâng cao chất lượng giống nòi mới bắt đầu được thử nghiệm trong vài năm gần đây. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống dẫn tới suy thoái giống nòi của một số dân tộc ít người đang là những vấn đề hết sức đáng quan tâm III. GIẢI PHÁP 1.Các biện pháp tổ chức thông tin, giáo dục, tuyên truyền -Tuyên truyền, cung cấp thông tin, kiến thức dân số- KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản nhằm tạo chuyển biến sâu sắc về nhận thức, thay đổi tâm lý, tập quán của người dân. Xây dựng và triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng. Đưa dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ đến với vùng sâu, vùng xa, vùng đông dân có mức sinh và tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao. -Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động nhằm tăng cường hơn nữa sự cam kết ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đại biểu dân cử, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và những người có uy tín trong cộng đồng đối với công tác Dân số - kế hoạch hoá gia đình; tiếp tục nâng cao nhận thức và đẩy mạnh hơn quá trình chuyển đổi hành vi trong nhân dân, đặc biệt là giới trẻ đối với việc chấp nhận và tự nguyện thực hiện kế hoạch hoá gia đình/ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, tập trung cho vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng khó khăn, nơi mức sinh còn cao. Triển khai mạnh và đồng loạt các chiến dịch lồng ghép truyền thông và cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình ở khu vực khó khăn, khu vực đông dân có mức sinh cao, tạo khí thế và đạt nhanh các chỉ tiêu kế hoạch từ những ngày đầu, tháng đầu của năm. -Mở rộng thử nghiệm một số mô hình nâng cao chất lượng dân số, rút kinh nghiệm để xác định mô hình tối ưu để triển khai trong giai đoạn tới, chú trọng kiểm soát chặt tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh để đề xuất và thực hiện các biện pháp can thiệp phù hợp, đảm bảo duy trì cơ cấu giới tính khi sinh ở mức cho phép. -Nhân rộng các mô hình nâng cao chất lượng dân số đã được triển khai thử nghiệm và phát huy hiệu quả như mô hình: Tăng cường cung cấp thông tin lồng ghép dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ cho thanh niên và vị thành niên; mô hình sàng lọc trước sinh và sơ sinh nhằm góp phần nâng cao nhận thức cho thanh niên, vị th.ành niên về sức khỏe sinh sản, giảm tỉ lệ trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ. 2.Các biện pháp kinh tế, xã hội -Tăng cường đầu tư từ ngân sách địa phương, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, các tổ chức, cá nhân trong - ngoài nước, và huy động sự đóng góp của cộng đồng cho công tác dân số. -Di dân là một trong số các nguyên nhân tạo nên việc tăng giảm dân số gây tình trạng phân bố không đồng đều giữa các vùng,miền do vậy để đảm bảo ổn định quy mô dân số cần thực hiện tốt các chính sách di dân đó là di dân trong nước và di dân quốc tế bao gồm cả chính sách xuất cư và chính sách nhập cư.Thực hiện tốt những chính sách đó nhằm giảm tỉ lệ di cư tự do,giảm sức ép cho những thành phố lớn về nhà ở,đất ở,việc làm,và sử dụng các dịch vụ công và dịch vụ xã hội. 3.Các biện pháp kỹ thuật, y tế -Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, đảm bảo các cơ sở thông tin và khoa học cần thiết cho công tác chỉ đạo, điều hành, chương trình và hoạch định chính sách. -Phối hợp với các ngành (nhất là ngành y tế), đoàn thể khác trong nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân số- KHH GĐ phù hợp yêu cầu mới. -Giảm nhanh tỷ lệ sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở -Huy động toàn xã hội tham gia công tác dân số, nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành, đoàn thể, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho mỗi gia đình, mỗi người dân tự nguyện thực hiện các mục tiêu về DS-KHHGĐ. -Nhằm đảm bảo cho sự phát triển quy mô dân số sao cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội thì việc thực hiện công tác dự báo dân số cần được trú trọng nhiều hơn nữa.Thường xuyên tiến hành các cuộc tổng điều tra dân số định kì,phân tích và dự báo dân số tạo cơ sở đánh giá và xây dựng chính sách dân số và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội phù hợp,khả thi. 4.Các biện pháp hành chính, pháp luật -Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền, coi đây là nhiệm vụ - KHHGĐ vào kế hoạch hoạt động của các ngành, đoàn thể và kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương -Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số. Ðây là yếu tố quyết định sự thành công của công tác dân số. Nhận thức rõ tính chất khó khăn, phức tạp lâu dài của công tác dân số, kiên quyết chống tư tưởng chủ quan thỏa mãn, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. -Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp các ngành, đoàn thể nhân dân. -Coi việc thực hiện tốt các chỉ tiêu về DS-KHHGĐ là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị cũng như mỗi cá nhân. Các tổ chức Đảng và đảng viên nếu vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng. -Một vấn đề quan trọng khác là kiện toàn và ổn định hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác dân số từ tỉnh đến cơ sở, phù hợp với sự chuyển hướng toàn diện về nội dung của chương trình và yêu cầu cải cách hành chính để thực hiện tốt hai chức năng quản lý nhà nước và điều phối các hoạt động trong lĩnh vực DS-KHHGĐ. -Cùng với các hoạt động trên cần nghiên cứu ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể của các địa phương về thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực dân số. Cán bộ, đảng viên phải là người gương mẫu và tích cực vận động gia đình, toàn dân thực hiện chính sách dân số. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vi phạm, không đề cử, đề bạt hoặc xem xét đưa ra khỏi các chức vụ lãnh đạo khi họ vi phạm chính sách dân số. -Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện công tác dân số. Củng cố tổ chức bộ máy và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ ở tỉnh, huyện, xã, đặc biệt là cán bộ ở các xã, phường, thị trấn, cộng tác viên dân số ở các thôn, làng, cụm dân cư. ---Bên cạnh đó cần tiếp tục triển khai đồng bộ các hoạt động thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ, trong đó tập trung đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục, phổ biến sâu rộng các nghị quy
Luận văn liên quan