Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh tế xã hội không đồng đều đến tất cả các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy, một bộ phận dân cư do các nguyên nhân khác nhau chưa bắt nhịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống sản xuất, và trở thành người nghèo. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội, và khẳng định nghèo đói ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, Đảng và Nhà nước ta coi giảm nghèo là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Từ những giá trị ấy mà Khoa Xã Hội Học – Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thuộc Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức hướng dẫn sinh viên của Khoa đi thực tập thực tế để có dịp cọ sát thực tế từ đó có sự đối chiếu giữa kiến thức ở trường lớp (lý thuyết) với thực tiển xã hội, đồng thời còn cho sinh viên có kinh nghiệm sau này khi ra trường, có cái nhìn cuộc sống được thực tế hơn.
22 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2423 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tác động của các chương trình 134 -135 trong công tác giảm nghèo ở phường pháo đài thị xã Hà Tiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Uyện gìĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
*****
Báo cáo tốt nghiệp
ĐỀ TÀI :
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH 134 -135 TRONG CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO Ở PHƯỜNG PHÁO ĐÀI THỊ XÃ HÀ TIÊN
PHẦN DẪN NHẬP
I/ BỐI CẢNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh tế xã hội không đồng đều đến tất cả các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy, một bộ phận dân cư do các nguyên nhân khác nhau chưa bắt nhịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống sản xuất, và trở thành người nghèo. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội, và khẳng định nghèo đói ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, Đảng và Nhà nước ta coi giảm nghèo là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Từ những giá trị ấy mà Khoa Xã Hội Học – Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thuộc Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức hướng dẫn sinh viên của Khoa đi thực tập thực tế để có dịp cọ sát thực tế từ đó có sự đối chiếu giữa kiến thức ở trường lớp (lý thuyết) với thực tiển xã hội, đồng thời còn cho sinh viên có kinh nghiệm sau này khi ra trường, có cái nhìn cuộc sống được thực tế hơn.
Qua chuyến thực tập thực tế tôi chọn đề tài: “Đánh giá tác động của các chương trình 134 – 135 trong công tác giảm nghèo ở Thị xã Hà Tiên” làm đề tài báo cáo khoa học.
II/ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1-Vấn đề nghiên cứu:
Đề tài này sẽ nghiên cứu và đánh giá sự thay đổi trong quan hệ xã hội, phong tục tập quán của các dân tộc và mức thu nhập của những hộ dân trong vùng Hà Tiên. Đối tượng tiến hành khảo sát là những hộ nghèo, đồng bào dân tộc và các phong tục tập quán của người khmer tại thị xã Hà Tiên – Tỉnh Kiên Giang.
2-Phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian tiến hành khảo sát nghiên cứu thực tế hạn chế, nên đoàn chỉ nghiên cứu giới hạn ở Phường Pháo Đài, Thị xã Hà Tiên, Tỉnh Kiên Giang.
III/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Nhằm tìm hiểu cuộc sống hàng ngày của người dân, đặc biệt là đồng bào người dân tộc đang lao động, sinh sống tại Phường Pháo Đài- Thị Xã Hà Tiên cũng như những chính sách hỗ trợ của đảng, chính quyền đối với những gia đình, đồng bào dân người dân tộc có hoàn cảnh khó khăn, giúp họ thoát nghèo, có cuộc sống ổn định, phát triển mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá,…
Tùy từng nhóm, đối tượng khác nhau chúng tôi đưa ra những mục tiêu cần thu thập thông tin khác nhau và cũng đã thu thập nhưng thông tin cần thiết cho chuyến thực tập này. Đó là các vị lãnh đạo của UBND xã, nhân dân là người dân tộc và người Kinh…, trưởng khu phố, trung niên, nam nữ,…
Ngoài ra, nhằm nắm bắt những yếu tố khách quan và chủ quan của việc thay đổi phong tục tập quán của các dân tộc tại Phường Pháo Đài – Thị xã Hà Tiên, qua đó nêu rõ chứng kiến của bản thân về những thay đổi trong từng thời đại.
Đúc kết cho bản thân những kiến thức bổ ích về các tập tục, lễ giáo, truyền thống … của các dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer. Qua đó, ta đưa ra được các nghiên cứu cụ thể như sau:
+ Nghiên cứu lý thuyết: bao gồm các hệ thống lý thuyết, khái niệm nhằm làm sáng tỏ chương trình 134 – 135 trong công tác giảm nghèo ở Phường Pháo Đài - Thị xã Hà Tiên.
IV/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1- Cơ sở lý luận:
a) Khách thể nghiên cứu:
Khi nói đến văn hoá truyền thống của người Kiên Giang, người ta thường nói đến những nét bản sắc rất riêng người dân tộc miền xuôi, dân tộc Khmer, vì tại vùng đất thiên này các lễ hội cũng như kiến trúc của nguời Kh’mer được thể hiện rất rõ nét. Đồng thời lối sống sinh hoạt người Kh’mer tại Kiên Giang còn được xem là nơi bảo tồn nét văn hoá riêng của tộc người chân chất, thật thà và đầy lòng thương yêu.Trong đó, cộng đồng dân tộc Kinh và dân tộc Hoa ở địa bàn này cũng hoà nhập vào lối sống, văn hoá, phong tục người Khmer. Chính vì thế đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là người nghèo Khmer ở Phường Pháo Đài – Thị xã Hà Tiên
b) Nội dung nghiên cứu:
Những vấn đề làm ăn sinh sống của người dân, chuyện mưu sinh lập nghiệp của thanh niên, những chính sách hỗ trợ của nhà nước, ngoài ra chú ý những phong tục tập quán của người dân tộc Khmer có ảnh hưởng ra sao khi sống chung một cộng đồng.
c) Cách tiếp cận:
Hướng tiếp cận của đề tài là tiếp cận giới, đối tượng trực tiếp lao động kiếm tiền và các loại tiếp cận khác…
d) Ý nghĩa thực tiễn:
Qua đợt thực tập này giúp cho sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào trong thực tế và làm quen các kỹ năng của phương pháp nghiên cứu Xã hội học. Đồng thời với việc nghiên cứu này sẽ góp phần nào trong việc tìm ra một số giải pháp khắc phục những khó khăn của người dân còn đang vướn mắc chưa tìm hướng đi của mình, những tác động qua lại giữa người dân, người dân tộc với chính quyền và ngược lại. Cũng qua chuyến thực tập này cũng giúp cho các bạn sinh viên khoa Xã hội học ở khoá sau, những ai quan tâm đến vấn đề về phong tục tập quán của người Khmer và những thay đổi trong quan hệ xã hội của người dân tại Phường Pháo Đài – Thị xã Hà TiênTỉnh - Kiên Giang thì có được tài liệu nghiên cứu ở mức ban đầu.
2- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu, sử dụng 2 phương pháp phổ biến trong xã hội học là Phương pháp định tính và phương pháp định lượng.
Phương pháp cụ thể trong nghiên cứu: Phương pháp thu thập thông tin sẵn có (thu thập từ cơ quan UBND; qua các báo cáo, websize của Thị xã Hà Tiên - Tinh Kiên Giang); Phương pháp chọn mẫu (Đây là phương pháp chọn mẫu xác xuất, chọn mẫu ngẫu nhiên bằng cách liên hệ với các thôn trưởng, UBND); sử dụng phần mềm SPSS để xử lý, mã hóa, phân tích các dữ liệu định lượng; đồng thời cũng sử dụng những biên bản phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm….
Các lý thuyết được sự dụng để nghiên cứu là lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý thuyết hành động...
PHẦN NỘI DUNG
I/ TỔNG QUAN VỀ PHƯỜNG PHÁO ĐÀI THỊ XÃ HÀ TIÊN:
1. Lịch sử hình thành:
Hà Tiên là tên gọi đã có từ xa xưa, qua từng thời kỳ, địa giới thay đổi từ vùng thành trấn, chuyển sang tỉnh, đổi thành quận, huyện và bây giờ là thị xã. Giữa thế kỷ 17, khi Mạc Cửu đến đây khai phá thì vùng đất này vẫn còn hoang sơ, vắng vẻ. Cuối thế kỷ trên, thì Hà Tiên đã trở thành một thương cảng sầm uất.
Năm 1714, khi Mạc Cửu dâng đất lên cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn dùng hai chữ Hà Tiên để đặt tên cho cả vùng đất bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang và một số vùng lân cận ngày nay.
Khi Gia Long lên ngôi, Hà Tiên được đặt thành trấn của Nam Kỳ, trong trấn có huyện Hà Tiên. Năm 1825, để không trùng tên với trấn, vua Minh Mạng đổi huyện Hà Tiên thành huyện Hà Châu. Năm 1832, vua Minh Mạng lại đổi trấn Hà Tiên thành tỉnh Hà Tiên. - Phường Pháo Đài Thị xã Hà Tiên thuộc vùng biển, đồi núi đồng bằng nằm trên trục đường 80 của Thị xã Hà Tiên, Tỉnh Kiêng Giang. Trước ngày 1 tháng 9 năm 1998 Phường Pháo Đài Thuộc 2 Ấp của Xã Mỹ Đức và 1 Ấp Pháo Đài B (Ấp Việt Nam và Ấp Bà Lý) của Thị trấn Hà Tiên. Sau ngày 1 tháng 9 năm 1998 từ 3 ấp thành lập Phường Pháo Đìa. Hiện nay Phường có 3 khu phố. Khu phố 1 (Pháo Đài B), Khu phố 2 (Ấp Việt Nam), Khu phốp 3 (Ấp BÀ Lý).
Về ranh giới hành chánh : Hướng Đông giáp phường Bình San, hương Tấy Bắc giáp Xã Mỹ Đức, hướng Nam giáp với biển Hà Tiên nay còn gọi là Khu du lịch Biển Nũi Nai.
2. Vị trí địa lý:
Thị xã Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo...tạo nên nhiều cảnh quan đẹp.
Sông Giang Thành bắt nguồn từ Campuchia, chảy vào khu vực Hà Tiên, dài khoảng 23 km. Sông đổ vào vũng Đông Hồ với chiều rộng cửa sông trên 200 m. Sông Giang Thành nối liền với kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến đường thủy quan trọng từ thị xã Châu Đốc đến thị xã Hà Tiên. Ngoài ra còn có sông Tô Châu và kênh Hà Tiên - Rạch Giá.
Các ngọn núi trên địa bàn thị xã hầu hết đều là những thắng cảnh như: núi Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động...Ven biển Hà Tiên có nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi biển Mũi Nai). Ngoài khơi có quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm năng du lịch.
Địa hình Phường có đặc điểm đồi Núi, Biển ; và Đồng Bằng có độ cao khoảng 200 m so với mực nước biển. Nền địa chất ổn định vững chắc, bãi bồi lấn biển hàng năm. Vị trí địa lý có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc khai thác đánh bắt, chế biến thủy hải sản. Nông sản (như ngô, khoai) sắn (củ mì) cây công nghiệp có sản lượng cao như : Tiêu, điều, gỗ quý và kinh doanh thương mại dịch vụ.
Phường Pháo Đài nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, khí hậu ở đây có những đặc điểm chính như sau: Số giờ nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 - 160 kcal/cm2 năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 270C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 23,90C, thường rơi vào khoảng tháng 12 - tháng 1; nhiệt độ cao nhất là 30,20C, thường rơi vào tháng 4 - 5. Nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất có lần đo được là 14,80C, nhiệt độ tuyệt đối cao nhất là 37,60C. Độ ẩm trung bình 81,9%.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu vực khác của đồng bằng Sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm. Vì khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nên nhiệt độ ổn định quanh năm độ ẳm cao và nguồn sáng dồi dào, rất thuận lợi cho việc phát triển, nông nghiệp; lâm nghiệp công nghiệp và nuôi trồng đánh bắt và chế biến thủy hải sản.
3. Tài nguyên thiên nhiên:
Đất: Diện tích tự nhiên của thị xã là 8.851,51 ha, trong đó đất nông nghiệp 4386 ha (chiếm 49,55%), nhưng mức độ phèn mặn cao, nếu ứng dụng khoa học kỹ thuật tốt để nuôi trồng thủy sản để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra còn quỹ đất chưa sử dụng là 2.561,89 ha.
Nước: Hà Tiên nói chung vá Phường Pháo Đài nói riêng nhận nước ngọt cung cấp từ sông Hậu qua kênh Vĩnh Tế, sông Giang Thành, kênh Rạch Giá - Hà Tiên.
Biển: Phường Pháo Đài nằm trong diện tích bờ biển, vũng Đông Hồ chia thị xã làm hai khu riêng biệt: phía Đông Nam là phường Tô Châu và Thuận Yên; phía Tây Bắc là phường Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài và xã Mỹ Đức. Xã đảo Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn nhỏ là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản đầy tiềm năng.
4. Dân số và lao động:
Người dân trong Phường Pháo Đài chủ yếu đến từ các Tỉnh vùng nông thân miền Tây Đồng bằng sông Cửu Long và trong đó có dân tộc thiệu số. Sau khi giải phóng nạn diệt củng của PônPốt Cam Pu Chia (Khơmer, Hao, Kinh). Họ di dân đến Phường Pháo Đài lệp nghiệp và sinh sống (khoảng thập niên 80, 90, từ 1979 trở lại đây) của thế kỷ 20.
Hiện nay Phường Pháo Đài có 3 khu phố, với 1780 hộ, 6315 khẩu; Tổng số lao động : 4240 trong đó có lao động nữ : 1721. Hộ đồng bào các tôn giáo chiếm 67,35% , trong đó đồng bào dân tộc kinh : 581 hộ/ 1.559 khẩu. Điện tích đất tự nhiên là 937,92 hecta; trong đó có 123,79 hecta đất trồng cây lâu năm (trong đó đất trồng lúa 97 hecta, đất trồng màu 25,79 hecta) đất trống cây lâu năm 115,07, đất lâm nghiệp 212 hecta; đất ở 18,31 hecta; đất trồng, đất hoang không hecta; đât khác 329,41 hecta.
Dân số 1,1 triệu người với ba dân tộc chính: Kinh, Khmer, Hoa, trong đó dân tộc Khmer chiếm 30% dân số. Lao động trong độ tuổi trên 60%, được đào tạo có tay nghề sẽ là nguồn cung cấp lao động tốt cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành có nhu cầu sử dụng nhiều lao động. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng: tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.
II/ MỘT SỐ NỘI DUNG TỪ THỰC TẬP THỰC TẾ:
Qua phân tích từ tư liệu sẵn có, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, bảng hỏi từ chuyến đi thực tập thực tế cho ta những nhận định và một số nội dung đánh giá tác động của các công tác nghèo ở Phường Pháo Đài-Thị xã Hà Tiên-Tỉnh Kiên Giang
1. Trình bày kết quả nghiên cứu và nhận xét đánh giá :
*Nhà ở:
Dân cư Phường Pháo Đài về nhà ở cơ bản ổn định chỉ còn 6,1% nhà tranh, lều lán tạm. Nguồn nước sạch chiếm 86,23% chỉ còn 1,58% hộ sử dụng nước mưa. Nhà vệ sinh không đảm bảo môi trường chỉ chiếm 13,37%.
* Kinh tế:
Về cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng, tạo điều kiện phát triển thương mại – dịch vụ - du lịch, nông – ngư nghiệp, đẩy mạnh việc vận động chuyển đổi cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Một số mô hình có hiệu quả kinh tế cao để phát triển nhân rộng trong cộng đồng dân cư, kết hợp với chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Bên cạnh đó, với nguồn tích lũy từ ngân sách đầu tư xây dựng đường giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Mức thu nhập trung bình đủ ăn chiếm đa số 65,95%, nhà khá chiếm 18,93%, giàu chiếm 10,93%; nghèo cận nghèo chiếm 4% như vậy trong thực tế Phường có mức sống trung bình, bình quân đầu người khoảng 4.000.000đ/tháng
* Các chính sách xã hội:
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước làm cho cuộc sống của người dân nơi đây được cải thiện đáng kể, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống hơn trước, mỗi người dân được vay vốn trong sản xuất kinh doanh, làm nông nghiệp, chăn nuôi,… Trong đó không có nghèo thuộc diện chính sách, không có hộ đói và hộ tái nghèo trên địa bàn. Việc chi trả chế độ trợ cấp luôn được thực hiện kịp thời, đúng quy định và đối tượng. Hàng năm giới thiệu và tạo việc làm từ 130 lao động đến 350 lao động.
*Giao thông đường bộ:
Phường Pháo Đài có hệ thống đường giao thông xuyên suốt trong 23,5km Đường Quốc lộ; 9,04km. Tỉnh lộ; 26,13km đường nội ô thị xã Hà Tiên và 27,5km đường giao thông nông thôn. Trong đó quan trọng nhất là tuyến Quốc lộ 80 nối thành phố Rạch Giá-Thị xã Hà Tiên và sang tận Campuchia. Đặc biệt kể từ tháng 12/2008 có thêm tuyến tàu cao tốc đi đến Huyện Đảo Phú Quốc khoảng 22 hải lý (khoảng 40km). Vì vậy Phường có lợi thế về vận chuyển, trao đổi, giao thông hàng hóa; Hoạt động Thương mại-dịch vụ-du lịch, đánh bắt, nuôi trồng Thủy hải sản, nông sản….
*Điện, nước:
Điện đã tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt chỉ còn 0,2% là những hộ ở trên cao (vùng núi, địa hình hiểm trở chưa có khả năng lắp đặt đường dẫn điện ) để sử dụng..
Mỗi hộ đều có giếng nước riêng hoặc được hổ trợ vốn xây bể chứa nước riêng, nguồn nước nơi đây chưa được lọc kỷ, người dân vẫn còn thói quen đi lấy nước trên suối, rừng, nước ở giếng khoan là sử dụng trong giặt giủ, tắm rửa, từ khi có dự án thủy điện người nữ có phần đỡ vấn vả hơn trong việc đi lấy nước ở rừng, suối, vì đã có giếng khoan của gia đình. Vì trước khi chưa có thủy điện hầu như theo phong tục của người dân tộc thiểu số là người phụ nữ đi lấy nước
*Trường học:
Tỷ lệ trẻ đến lớp học của Phường như; Mẫu giáo, tiểu học, Phổ thông cơ sở, Trung học phổ thông, nhưng cơ sở trường của Phường còn thiếu, nên phải học sắp xếp học xen kẽ (mẫu giáo học 36 buổi sau khi tiểu học nghỉ hè vào tháng 8 ). Các cấp còn lại phải gửi học tại trường ở Phường lân cận. Do đó chất lượng dạy và học không đảm bảo theo yêu cầu nội dung chương trình. Trường học xây dựng bán kiên cố, bằng gỗ, gạch, cát, ximăng tạm bợ số phòng học không đáp ứng nhu cầu học tập .
*Y tế:
Trạm y tế: 08 giường, 11 phòng, diên tích; 168m.So với tổng số hộ, số nhân khẩu của dân cư Phường Pháo Đài thì số lượng, Bác sĩ; 01, Y sĩ; 01.Trạm y tế của xã đã được phân bố bác sĩ, cán bộ y tế tạm đủ, chất lượng khám và điều trị bệnh bước đầu được người dân tin tưởng, đã có tiến bộ trong nhận thức và chất lượng phục vụ của cán bộ y tế và người dân, đa phần khi bệnh họ đến trạm khám, điều trị.... Đã hạn chế được bệnh thương hàn, sốt rét, tiêu chảy, cảm sốt; chương trình tiêm chủng, khám thai định kỳ cho phụ nữ và trẻ em được thực hiện, uống Vitamin A. Nhưng nhìn chung còn kém, vì các khu phố này là một khu phố thuần là người dân tộc nên việc ý thức bảo vệ sức khỏe chưa chú trọng lắm, nhất là còn tin vào thuốc rừng (thuốc nam), cúng kiến, chưa xóa được những tập tục của họ.
*Thông tin liên lạc:
Hệ thống thông tin liên lạc của phường đã được hiện đại hóa, phủ sóng đều khắp trong tỉnh, cả nước và trên thế giới, mọi thông tin liên lạc từ các nơi đều được phục vụ theo nhu cầu của người dân ( Điện thoại, Tivi, Đài, loa phóng thanh ). Dịch vụ viễn thông cung cấp mạng như: Vinaphone, Mobifone, Viettel, Sfone,...
* Các loại thương mại – dịch vụ khác:
Quán xá, cửa hàng, tạp hóa nơi đây rất ít, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao không thấy có ví dụ Internet, điện thoại công cộng, các đại lý thuốc tây hay các lĩnh vực nông lâm nghiệp không thấy kinh doanh, xuất hiện. Phải chăng người dân sử dụng ít hay không cần thiết sử dụng đến.
* Văn hoá – Phong tục tập quán:
Tuy là vùng đất trẻ nhưng Hà Tiên có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Lễ hội nghinh ông (lễ cúng biển), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hoá khác. (lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm).
Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Hà Tiên nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hoà quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Xà Xía – Phù Dung – Tam Bảo, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Hà Tiên cộng lại.
Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10 ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3 ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer.
Trang phục nam giới: thường nhật nam giới trung niên và người già thường mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể thường mặt bộ "xà rông" (hôl) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ. Đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm ''con dao cưới'' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không mặc áo và quấn chiếc ''xà rông'' kẻ sọc.
Trang phục nữ giới: Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ KhMer Nam Bộ thường mặc ''xăm pốt'' (váy). Đó là loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân nhưng có điểm riêng với nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là cách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng. Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có thể có sự tiếp xúc với các tộc người khác thì cách mặc váy này có thể xem là đặc trưng độc đáo của KhMer Nam Bộ. Người Khmer tự sống tập trung trong một khu vực riêng, nhưng họ vẫn theo lối sống của người Kinh và chịu một chút ảnh hưởng của cộng đồng người Hoa. Đời sống sinh hoạt, cũng như phong tục tập quán của người Khmer gắn liền với tôn giáo. Tất cả họ đều theo đạo Phật dòng Tiểu Thừa (Phật Giáo nguyên thuỷ), những nghi thức cưới sinh, giỗ kị, ma chay, lễ hội … đều gắn với nhà chùa. Vì vậy người ta thường nói câu “ở đâu có người Khmer ở đó có chùa”. Trong đó, vị trụ chì (Lục Thum – hay còn gọi là sư cả) là người có quyền lực tối cao trong cộng đ