Đề tài Đánh giá tình hình thu hút FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam

Hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, quá trình này diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hoá, chính trị, giáo dục Trong đó, sự thay đổi rõ rệt nhất là trong đời sống kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây đặc biệt là từ sau khi nước ta giai nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến chuyển. Cụ thể là trong hoạt động thu hút vốn FDI từ nước ngoài đã tăng trưởng một cách rõ rệt. Để có những kết quả đó là do những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam trong xây dựng cơ sở hạ tầng, sửa đổi hệ thống chính sách phù hợp với thực tế, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta đầu tư. Việc thu hút vốn vào nước ta được thực hiện thông qua quá trình tiến hành đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất chế biến tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từ năm 1991 đến nay chúng ta đã tiến hành đầu tư phát triển các khu công nghiệp, tạo điều kiện vật chất cơ sở hạ tầng tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước ta. Đến nay tính chung cả nước có tổng cộng gần 150 khu công nghiệp khu chế xuất trên cả nước trong đó tập trung chủ yếu tại khu vực đông nam bộ, nam trung bộ và đồng bằng châu thổ Sông Hồng Việc thu hút FDI thông qua các khu công nghiệp, khu chế xuất đã mang lại những kết quả đáng kể cho việc phát triển kinh tế nước ta, song bên cạnh đó còn có những vấn đề tồn tại Trong bài nghiên cứu này nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá tổng quát quá trình phát triển của các khu công nghiệp khu chế xuất tại Việt Nam và tình hình thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất trong những năm gần đây, đặc bbiẹt là từ năm 2000 đến nay.

doc35 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2205 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tình hình thu hút FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập chuyên đề Môn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ Đề tài: Đánh giá tình hình thu hút FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam Lời mở đầu Hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, quá trình này diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hoá, chính trị, giáo dục… Trong đó, sự thay đổi rõ rệt nhất là trong đời sống kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây đặc biệt là từ sau khi nước ta giai nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến chuyển. Cụ thể là trong hoạt động thu hút vốn FDI từ nước ngoài đã tăng trưởng một cách rõ rệt. Để có những kết quả đó là do những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam trong xây dựng cơ sở hạ tầng, sửa đổi hệ thống chính sách phù hợp với thực tế, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta đầu tư. Việc thu hút vốn vào nước ta được thực hiện thông qua quá trình tiến hành đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất chế biến tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từ năm 1991 đến nay chúng ta đã tiến hành đầu tư phát triển các khu công nghiệp, tạo điều kiện vật chất cơ sở hạ tầng tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước ta. Đến nay tính chung cả nước có tổng cộng gần 150 khu công nghiệp khu chế xuất trên cả nước trong đó tập trung chủ yếu tại khu vực đông nam bộ, nam trung bộ và đồng bằng châu thổ Sông Hồng… Việc thu hút FDI thông qua các khu công nghiệp, khu chế xuất đã mang lại những kết quả đáng kể cho việc phát triển kinh tế nước ta, song bên cạnh đó còn có những vấn đề tồn tại… Trong bài nghiên cứu này nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá tổng quát quá trình phát triển của các khu công nghiệp khu chế xuất tại Việt Nam và tình hình thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất trong những năm gần đây, đặc bbiẹt là từ năm 2000 đến nay. Để hoàn thành đề tài này nhóm nghiên cứu có sử dụng các số liệu của Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch & đầu tư, các bài viết có liên quan của một số tác giả. Nhóm nghiên cứ xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của: TS. Đinh Đào Ánh Thuỷ - giảng viên bộ môn kinh tế đầu tư Cùng toàn thể tập thể giảng viên bộ môn kinh tế đầu tư đã giúp nhóm chúng em hoàn thành đề tài này. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được các ý kiến đóng góp cho bài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn!!! Chúng em xin chân thành cảm ơn!!! Nhóm nghiên cứu chuyên đề Lớp kinh tế đầu tư 47 D ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội Hoàng Hải Nam Trần Thái Sơn Nguyễn Quang Quân Hồ Sỹ Hải Chương I Lý thuyết về khu chế xuất, khu công nghiệp Các khái niệm Khái quát các loại hình khu công nghiệp Khu công nghiệp là một khái niệm chung bao gồm nhiều hình thức từ các hình thức truyền thống như: khu mậu dịch tự do, cảng tự do… xuất hiện từ thế kỷ XIX đến các hình thức mới xuất hiện cuối thế kỷ XX như khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. Theo chương trình môi trường Liên Hợp Quốc có thể phân các khu công nghiệp trên thế giới thành các loại hình sau đây: Khu công nghiệp tập trung Khu chế xuất Khu tự do Khu chế biến công nghiệp Trung tâm công nghệ cao Khu công nghệ sinh học Khu công nghệ sinh thái Trong phần này giới thiệu hai loại hình đang phổ cập ở Việt Nam, đó là khu chế xuất và khu công nghiệp. 2. Khu chế xuất 2.1 Các quan điểm về khu chế xuất Theo quan niệm của hiệp hội khu chế xuất  thế giới WEPZA (World Export Processing Zone Asssociation), khu chế xuát bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hóa hoạt động sản xuất công nghiệp chủ yếu vào mục đích xuất khẩu đó là khu vực biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông ở nước đó. Theo quan niệm này, khu chế xuất bao gồm Cảng tự do, Đặc khu kinh tế, các khu vực ngoại thương. Theo cá tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc UNIDO (United Nations Industrial Development Organization) thì khu chế xuất được hiểu là: là một khu vực tương đối nhỏ, có phân cách địa lý trong một quốc gia, nhằm mục tiêu thu hút các doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) hướng về xuất khẩu, bằng cách cung cấp cho các doanh nghiệp những điều kiện về đầu tư và mậu dịch đặc biệt thuận lợi hơn so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép nhập khẩu hàng hóa cho mục tiêu sản xuất hàng xuất khẩu miễn thuế. 2.2 Đặc điểm của khu chế xuất Khu chế xuất là khu vực có hàng rào ngăn cách với cấc khu vực khác. Mục đích hoạt động của khu chế xuất là để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước sản xuất theo định hướng sản xuất hàng xuất khẩu bằng những chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế quan và các điều kiện mậu dịch khác. Hàng hóa, tư liệu sản xuất nhập vào các khu chế xuất để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế hải quan. Hoạt động trao đổi hàng hóa với thị trường nội địa được coi là hoạt động xuất nhập khẩu. Khu chế xuất có cơ sở hạ tầng tốt như đường xá, điện nước, mạng lưới thông tin liên lạc. Khu chế xuất thường được xây dựng tại các khu vực thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa. 3. Khu công nghiệp tập trung 3.1 Khái niệm về khu công nghiệp tập trung Là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp được xây dựng trên một vùng có thuận lợi về mặt địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, có cơ sở hạ tầng tốt.. nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào hoạt động theo một cơ cấu hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh nghiệp dịch vụ. 3.2 Đặc điểm Khu công nghiệp tập trung về cơ bản có nhiều đặc điểm trùng với khu chế xuất, cả hai đều là một trong những loại hình khu công nghiệp, là khu vực được xây dựng cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ, vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn được lập ra để phát triển công nghiệp mà phần lớn là công nghiệp tiêu dùng đại bộ phận là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống và có các quy chế pháp lý riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu…Tuy nhiên, giữa hai loại hình này có những đặc điểm khác nhau: Các sảm phẩm được sản xuất ra trong khu chế xuất đều  phải xuất khẩu 100%, nếu muốn tiêu thụ ở thị trường trong nước chủ doanh nghiệp phải đóng thuế như các hàng hóa nhập khẩu cùng loại khác. Trong khi đó những hàng hóa được sản xuất từ khu công nghiệp vừa có thể xuất khẩu vừa có thể tiêu thụ tại thị trường nội địa không phải chịu thuế nhập khẩu. Như vậy có nghĩa là quan hệ giữa doanh nghiệp của khu chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, trong khi đó quan hệ giữa các doanh nghiệp của khu công nghiệp với thị trường nội địa là quan hệ nội thương. Khu chế xuất, khu công nghiệp là những mô hình đã phát triển từ lâu song việc hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp như là một công cụ để thu hút đầu tư trực tiép nước ngoài với mục tiêu khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu thì mới phát triển trong vài thập niên gần đây. Nói chung, đây là những hình thức tổ chức có cơ chế pháp lý đơn giản, rõ ràng và được quy định riêng trong các quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.   Vai trò của khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam Trong phần này nhóm nghiên cứu xin đề cập tới những vai trò chính của khu công nghiệp và khu chế xuất đối với nền kinh tế, đặc biệt là trong việc thu hút vốn FDI cho việc phát triển kinh tế Vai trò thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài Hiện nay chúng ta thấy rằng nhà nước đang xây dựng chiến lược phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất vơéi mục tiêu thu hút hơn nữa vốn FDI tư nước ngoài. Đặc biệt là từ khi nước ta chính thức gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới WTO. Bắt đầu từ thời kì này nước ta có sự gia tăng lớn về vốn FDI, việc thành lập các khu công nghiệp là cơ sở cho việc kêu gọi đầu tư của nước ta. Phần lớn số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 đã chảy vào vùng trũng là các khu công nghiệp trên cả nước. Dự báo, với Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các khu công nghiệp sẽ là tâm điểm hút nguồn vốn FDI, dự kiến đạt khoảng 6 tỷ USD/năm. Con số cuối cùng về thu hút FDI trong năm 2006, theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vào khoảng 10 tỷ USD, trong đó vốn cấp mới là 7,5 tỷ USD, còn lại là vốn đăng ký bổ sung. Và trong tổng vốn đăng ký cấp mới cho 797 dự án, riêng các khu công nghiệp và khu chế xuất trong cả nước đã chiếm tới 48,6% tổng vốn đăng ký. Trong 10 dự án có quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006 phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD. Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này. Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD,… Như vậy, tính từ trước đến nay, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút gần 2.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 20 tỷ USD. Đối với các chuyên gia, kết quả nổi bật về thu hút FDI của các khu công nghiệp trong năm 2006 không phải là điều gì quá ngạc nhiên. Theo họ, đó chính là sự nối tiếp thành quả của những năm trước, và điều này càng thêm khẳng định một dự báo trước đó rằng các khu công nghiệp sẽ là viên nam châm "hút" nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam. Cộng với quyết định của Thủ tướng phê quyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, với mục tiêu hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt công nghiệp quốc gia, viên nam châm này sẽ được tiếp thêm một năng lượng lớn. Nhiều ý kiến cũng cho rằng với việc Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sẽ có nhiều cơ hội hơn được tạo ra cho nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó các khu công nghiệp càng trở nên hấp dẫn hơn, làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng mạnh cả về nguồn vốn, công nghệ, và kinh nghiệm quản lý. Không chỉ thu hút vốn trực tiếp, sắp tới, với việc lên sàn giao dịch chứng khoán, các khu công nghiệp còn có thế mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp phía Nam của các địa phương: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tp.HCM, và Đồng Nai vẫn là những đơn vị thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất của cả nước, với 205 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,9 tỷ USD, chiếm 73% số dự án và 76% số vốn thu hút mới trong các khu công nghiệp trên cả nước (tính trong 11 tháng đầu năm). Những tỉnh, thành phố này cũng thuộc diện danh sách các địa phương thu hút trên 100 triệu USD trong năm 2006. 2.Nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản lý sản xuất KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây chính là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel…, những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử…. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm….. Tuy nhiên, các KCN cũng đã thu hút được các dự án có quy mô và yêu cầu vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, sản xuất ô tô, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính xác, vật liệu xây dựng…. Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN mới chiếm khoảng 5 – 10% số dự án, nhưng cũng đã góp phần phát triển và đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề công nghiệp. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan tỏa và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Việt Nam lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự…. Việc được trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, dã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. 3.Hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng Qua 15 năm hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam, nhiều KCN đã và đang đóng vai trò quan trọng và tạo ra một khí thế phát triển mới cho nền kinh tế cả nước. Tại các vùng hay địa phương có các KCN hoạt động mạnh thì mức độ tăng trưởng kinh tế ở đó cao hơn những nơi KCN chưa phát triển. Tính đến hết năm 2005 cả nước có 130 KCN phân bố ở 45 tỉnh, thành phố với quy mô bình quân khoảng 205 ha/KCN. Trong đó có 75 khu đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 16.381 ha. Tỷ lệ điền đầy của các KCN đang hoạt động đạt khoảng 71,4% diện tích đất có thể cho thuê. Theo số liệu của Đề cương Hội nghị gửi kèm công văn số 104/BKH-KCN&KCX ngày 23/2/2006 của Bộ KH&ĐT. Về thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cả nước hiện đã có khoảng 130 dự án xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Việc phát triển các KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau: - Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên Hòa, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng. - Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi của nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN. - Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh), Việt Hương (Bình Dương)…. - Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí… - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các ngành như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN. III. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp Mô hình quản lý hành chính Hiện nay nước ta có khoảng 150 khu chế xuất và khu công nghiệp trên cả nước. Với số lượng rất lớn của các khu công nghiệp hiện nay thì việc quản lý của nhà nước là vô cùng khó khăn. Hiện nay ở địa bàn các tỉnh có khu công nghiệp đều thành lập các ban quản lý, mà đó việc quản lý trực tiếp thuộc về các ban quản lý này và nhà nước thông qua ban quản lý để có thể biết được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Ngoài ra đánh giá tổng thể về quản lý nhà nước với khu công nghiệp chúng ta có thể đánh giá về quản lý theo chiều dộc và quản lý theo chiều ngang, Trong đó, quản lý theo chiều dọc là quản lý theo các ngành, cơ quan theo chức năng từ trung ương cho đến cơ sở, đứng đầu là chính phủ chịu trách nhiệm quản lý chung về quy hoạch cà chiến lược phát triển, sau đó là các bộ lien quan quản lý theo chức năng(bộ Xây dựng quản lý về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bộ Tài nguyên mối trường quản lý về việc xử lý chất thải…), tiếp sau là các ban quản lý khu công nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý các doanh nghiệp và báo cáo kết quả cho các cơ quan lien quan. Đánh giá mô hình quản lý nhà nước đối với khu chế xuất và khu cồng nghiệp tại Việt Nam ta có thể thông qua sơ đồ sau: Quản lý nhà nước Quản lý địa phương Bộ công nghiệp Bộ xây dựng Bộ khoa học công nghệ và môi trường Bộ thương mại Ban tổ chức cán bộ chính phủ Bộ kế hoạch và đầu tư Các cơ quan quản lý các KCN trung ương Ban quản lý khu công nghiệp địa phương Cấp, thu hồi giấy phép đầu tư Xây dưng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Ban hành điều lệ quản lý khu công nghiệp Xác định các laọi hình công nghiệp Phê duyệt quy hoach chi tiết Tổ chức thẩm định các dự án khu c ông nghiệp thẩm định thiết kế kỹ thuật Quản lý vè khoa học công nghệ và môi trường Xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu Bộ máy nhân sự của Ban quản lý công nghiệp cấp tỉnh Doanh nghiệp Công nghiệp Dự án phát triển Khu công nghiệp Công ty kinh doanh hạ tăng KCN Chính sách của nhà nước tác động quan trọng đến sụ phát triẻn khu công nghiệp, khu chế xuất cần không ngừng hoàn thiện các chính sách Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế một cửa trong quản lý phát triển các khu công nghiệp. Cải cách hành chính và công nghệ thông tin trong quản lý, đảm bảo quản lý thống nhất các khu công nghiệp. Ngoài ra cần từ bỏ quản điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói: ”VIệt Nam chỉ khuyến khích đầu tư mà không khuyến khích sản xuất”. Chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở h
Luận văn liên quan