Lâu nay, thụ động trong giảng dạy và học tập đã trở thành một thói quen. Nhưng khi cả thế giới thay đổi bởi sức mạnh của CNTT, giáo dục cũng không thể giậm chân tại chỗ. Ứng dụng CNTT được kỳ vọng là lựa chọn khả thi giúp “năng động hoá” cả ngành giáo dục VN!
Tại Việt Nam, cách đây khoảng vài năm, những hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy và học đã bắt đầu xuất hiện. Đó là việc cho ra đời những cổng đào tạo trực tuyến của các cơ quan, các trường ĐH, là việc các giáo viên tự vận dụng kiến thức công nghệ trong bài giảng của mình. Thế nhưng việc triển khai một cách nhỏ lẻ, đôi khi là tự phát, lại không giao tận tay công cụ cho giáo viên, học sinh, đã khiến cho nhiều người nghi ngờ hiệu quả của việc ứng dụng CNTT vào dạy và học.
Vậy thực trạng của việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy và học hiện nay như thế nào? Đặc biệt trong kiểm tra đánh giá.
Khái niệm về kiểm tra đánh giá ? Phương pháp trắc nghiệm và phương pháp trắc nghiệm khách quan? Ứng dụng phần mềm Emptest trong hoạt đọng kiểm tra đánh giá tại trường phổ thông.
33 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2977 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông, kiểm tra đánh giá và phương pháp trắc nghiệm khách quan, ứng dụng phần mềm Emptest trong kiểm tra đánh giá môn Tin học 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
-----&-----
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH TIN HỌC
Bộ môn Phương pháp giảng dạy
Đề tài: ĐÁNH GIÁ ỨNG DUNG CNTT TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG ; KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN, ỨNG DỤNG PHẦN MỀM EMPTEST TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN TIN HỌC 10
Sinh viên thực hiện: Hà Phượng Linh
Lớp: A-K54
Giáo viên hướng dẫn: TS.Trần Doãn Vinh
Hà Nội, 4-2008
Báo cáo nghiên cứu khoa học :
Đánh giá ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông
Phương pháp kiểm tra đánh giá, phương pháp trắc nghiệm và ứng dụng của phần mềm Emptest
I. Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài :
Lâu nay, thụ động trong giảng dạy và học tập đã trở thành một thói quen. Nhưng khi cả thế giới thay đổi bởi sức mạnh của CNTT, giáo dục cũng không thể giậm chân tại chỗ. Ứng dụng CNTT được kỳ vọng là lựa chọn khả thi giúp “năng động hoá” cả ngành giáo dục VN!
Tại Việt Nam, cách đây khoảng vài năm, những hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy và học đã bắt đầu xuất hiện. Đó là việc cho ra đời những cổng đào tạo trực tuyến của các cơ quan, các trường ĐH, là việc các giáo viên tự vận dụng kiến thức công nghệ trong bài giảng của mình. Thế nhưng việc triển khai một cách nhỏ lẻ, đôi khi là tự phát, lại không giao tận tay công cụ cho giáo viên, học sinh, đã khiến cho nhiều người nghi ngờ hiệu quả của việc ứng dụng CNTT vào dạy và học.
Vậy thực trạng của việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy và học hiện nay như thế nào? Đặc biệt trong kiểm tra đánh giá.
Khái niệm về kiểm tra đánh giá ? Phương pháp trắc nghiệm và phương pháp trắc nghiệm khách quan? Ứng dụng phần mềm Emptest trong hoạt đọng kiểm tra đánh giá tại trường phổ thông.
2.Mục đích nghiên cứu
Một số đánh giá về thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học ở nhà trường phổ thông đặc biệt trong kiểm tra đánh giá;
Giới thiệu bộ phần mềm trắc nghiệm Emptest và ứng dụng xây dựng bộ câu hỏi đủ định tính và định lượng theo nội dung chương trình tin học lớp 10 nhằm góp phần nâng cao chất lượng của việc kiểm tra đánh giá học sinh trong việc dạy học Tin học lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông.
3.Giả thiết khoa học :
Phương pháp kiểm tra-đánh giá
Phương pháp trắc nghiệm khách quan
Nếu xây dựng được các nguyên tắc, quy trình ứng dụng phần mềm Emptest xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đủ tiêu chuẩn và sử dụng hợp lý vào các khâu của quá trình dạy học, đặc biệt là khâu kiểm tra đánh giá, sẽ nâng cao chất lượng dạy và học Tin học ở trường THPT nói chung và dạy học Tin học lớp 10 nói riêng.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng ứng dụng CNTT trong dạy và học ở nhà trường phổ thông
- Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận của việc kiểm tra đánh giá
- Nghiên cứu phần mềm Emptest
- Ứng dụng phần mềm Emptest xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm cùng với hệ thống đáp án.
- Thực nghiệm sử dụng phần mềm trong việc kiểm tra đánh giá ở các trường THPT, nhằm kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận về ứng dụng CNTT trong dạy và học và trắc nghiệm khách quan.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu xem thực trạng tình hình dạy học ứng dụng CNTT và phương pháp kiểm tra, đánh giá ở trường THPT;
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm nhằm xác định tính khả thi, hiệu quả của đề tài và chất lượng của phần mềm
- Phương pháp thống kê toán học: Để xử lý và phân tích kết quả thực nghiệm.
II. Nội dung
1. Hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học ở trường phổ thông
Từ trước đến nay, việc ứng dụng CNTT thường được đánh đồng với hoạt động trang bị máy tính, phần mềm, và kỳ vọng vào việc máy móc sẽ giúp thay đổi thực tế. Đó là nguyên nhân tại sao đã có những thời kỳ các trường học đua nhau trang bị hàng chục, thậm chí hàng trăm máy tính. Và rồi hầu như không bao giờ sử dụng đến, trừ những giờ dạy tin học hiếm hoi cho học sinh. Ngay cả việc học tập môn tin học cũng chỉ dừng lại ở hình thức: Thầy đọc, trò ghi.
Sự thực thì để ứng dụng CNTT có hiệu quả, máy móc sẽ chỉ là công cụ, còn con người mới là yếu tố chủ đạo quyết định thành công.
Theo GS. TSKH Trần Văn Nhung - Thứ trưởng Bộ GD-ĐT: "Nếu người sử dụng được đào tạo tương đối bài bản và cẩn thận thì việc sử dụng máy tính sẽ mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên chúng ta không thể đòi hỏi ngay kỹ năng này được, vì thời gian đầu tiếp xúc với máy tính, giáo viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên hãy chờ đợi ở sự học hỏi vươn lên của họ".
Chắc chắn không thể trao cho chiếc máy tính quá nhiều kỹ năng mong muốn. Nó chỉ là một công cụ thông minh và hiệu quả để giúp người sử dụng phát huy tối đa tiềm năng, và thực hiện tốt hơn những kỹ năng của mình. Đó là lý do tại sao những giờ giảng trực tiếp, giọng nói, cử chỉ của thầy và trò là điều không thể thiếu để tạo nên một môi trường sư phạm thực sự.
Việc thay đổi tư duy của các cấp lãnh đạo, của giáo viên, học sinh về chiếc máy tính, về những phần mềm được trang bị mới chính là chìa khoá để chúng ta mở rộng cánh cửa tri thức của nhân loại.
Có một sự so sánh đã trở thành kinh điển: “Sự ra đời máy hơi nước của Jame Watt đã giúp con người kéo dài cánh tay của mình. Còn sự ra đời của máy tính điện tử và CNTT đã kéo dài bộ óc của con người”. Trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay, không biết ứng dụng hay không ứng dụng tốt CNTT vào giáo dục đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn tài nguyên lớn nhất.
Theo báo cáo của ông Quách Tuấn Ngọc - Giám đốc Trung tâm Tin học (CIT- Bộ GD&ĐT), hiện nay đã có 96% các trường THPT trong cả nước được kết nối Internet. Và mục tiêu của Bộ GD-ĐT là tới năm 2004 sẽ đưa internet tới 100% các trường THPT trong cả nước. Ông Patrick J.McGovern - nhà sáng lập kiêm Chủ tịch Tập đoàn Dữ liệu quốc tế (IDG) cũng nhận định: "Ngành giáo dục Việt Nam những năm qua đã có những phát triển đáng kể, đặc biệt là việc ứng dụng CNTT trong giáo dục với 65 trường ĐH, CĐ hiện đang đào tạo các ngành liên quan đến CNTT".
Sự mất cân đối và hụt hẫng trong việc ứng dụng CNTT trong giáo dục của Việt Nam: Một thực tễ rõ ràng là nhiều cấp, nhiều trường trong ngành GD-ĐT đến nay vẫn chưa mấy mặn mà với việc triển khai khai thác mạng Internet, và nguyên nhân có thể do khó khăn về đường truyền, hay không có kinh phí duy trì hoạt động, nhưng cũng có khi là vấn đề không được coi là chủ đề đáng quan tâm đúng mức. Đối với các khu vực là vùng sâu, vùng xa, việc triển khai được hệ thống mạng internet đã là một việc khó, nhưng cả việc hệ thống đó được sử dụng hiệu quả ra sao cũng phải khẳng định ngay là điều không đơn giản. Ở những khu vực này ngày cả trình độ ứng dụng CNTT của đội ngũ giáo viên cũng còn rất nhiều hạn chế chứ chưa nói đến việc truyền thụ cho học sinh.
Việc triển khai, ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập còn lẻ tẻ. Đầu tư cho máy móc, thiết bị tin học hay phát triển phần mềm giảng dạy cũng rất rời rạc và thiếu tập trung, mang tính tự phát là chính.
Tất nhiên, đưa CNTT vào lĩnh vực GD-ĐT không có nghĩa là chỉ “internet hoá” hay đầu tư cơ sở hạ tầng là xong. Trên thực tế, việc này đòi hỏi phải tốn nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Ngoài đầu tư về hạ tầng, còn cần phải có sự đầu tư về chiều sâu đối với vấn đề con người mà như một chuyên gia đã khẳng định rằng đây chính là linh hồn của việc phát triển CNTT trong giáo dục. Hiện nay, Tp. Hà Nội vốn được xếp là một trong 10 địa phương hàng đầu về ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục, nhưng thực ra con số giáo viên có trình độ ĐH và CĐ về CNTT chắc chắn không quá 200, còn số giáo viên có thể giảng dạy được các chương trình tin học cơ bản cũng chưa phải là nhiều, chỉ có khoảng hơn 20% giáo viên bộ môn tin học được đào tạo cơ bản về máy tính và tỉ lệ giáo viên biết sử dụng máy tính và các phần mềm trong dạy học chiếm có 5%. Đó là chưa kể đến việc ngay cả một số lãnh đạo nhà trường vẫn còn chưa thông thạo về CNTT.
Tại buổi khai mạc hội thảo “Công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục” ngày 25/3/2007, Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực nhấn mạnh, việc xây dựng một lực lượng rộng rãi các chuyên gia, nhà quản trị mạng trong lĩnh vực CNTT là yếu tố tiên quyết để thúc đẩy chất lượng giáo dục. Việt Nam hiện có gần 26.000 trường ĐH, CĐ, THCN và THPT, THCS với gần 20.000 triệu HSSV (trong đó có gần 1 triệu SV). Rõ ràng đây là con số quá cao so với lực lượng về CNTT mà chúng ta đang có. Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2005, ít nhất phải đào tạo được 50.000 chuyên gia CNTT ở các trình độ khác nhau, đạt chỉ tiêu về số lượng (tính trên 10.000 dân) và chất lượng chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang bằng với mức bình quân của các nước trong khu vực. Vậy nhưng nhiều người đã đặt câu hỏi, sẽ có bao nhiêu % trong số này sẽ phục vụ cho ngành GD-ĐT và đó còn chưa kể đến vì một lý do nào đó mà mục tiêu trên không thể hoàn thành.
Ứng dụng Công nghệ Thông tin trong dạy học - Nhìn từ góc độ kỹ thuật
Theo KS. Nguyễn Minh Hùng – ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh:
Nhìn từ góc độ kỹ thuật, để ứng dụng CNTT vào dạy học chúng ta cần đáp ứng những yêu cầu sau:
Về thiết bị
Máy vi tính (Computer)
Máy in (Printer)
Đĩa lưu trữ (Hard Disk, Flash Disk, CD-ROM)
Máy chiếu (Projector)
Hệ thống nối mạng cục bộ (LAN)
Đường truyền và thiết bị kết nối internet (Modem, Router, Phone Line, ADSL)
Thiết bị ghi âm, chụp hình, quay phim (Sound Recorder, Camera, Camcorder)
Máy quét hình (Scanner)
Một số thiết bị khác
Về phần mềm
Hệ điều hành (Operating System)
Hỗ trợ gõ văn bản tiếng Việt (Vietnamese Keyboard Software)
Soạn thảo văn bản (Document Writing Processor)
Quản lý bảng tính (Spreadsheet Processor)
Dựng hệ thống trình chiếu, tương tác (Authoring Tool)
Hỗ trợ trình chiếu qua mạng (Presenter for LAN)
Duyệt thông tin web (Web Browser)
Tạo dựng, xử lý ảnh số (Digital Photo Processor)
Tạo dựng, xử lý âm thanh số (Digital Sound Processor)
Tạo dựng, xử lý phim số (Digital Video Processor)
Mô phỏng (Emulation)
Soạn giáo án điện tử (Lesson plan Software)
Soạn bài kiểm tra, đánh giá (Testing Processor)
Quản lý trường, lớp (School Management)
Một số phần mềm khác
Thực trạng
Với những yêu cầu nêu trên chúng ta thấy thực trạng trang bị cơ sở vật chất CNTT cho các trường hiện nay là không đồng bộ cả về số lượng lẫn tính chất. Việc mất cân đối này dẫn đến hiệu quả thấp trong việc dạy học trên cùng một mặt bằng kiến thức. Giáo viên thuộc các trường ở các tỉnh khó khăn sẽ không có cơ hội ứng dụng CNTT đa dạng như ở những thành phố lớn có nhiều điều kiện thuận lợi.
Một vấn đề khác là việc lãng phí cơ sở vật chất CNTT đã xảy ra ở một số nơi. Trong khi có rất nhiều nơi đang cần cơ sở vật chất CNTT để ứng dụng vào dạy học thì cũng có một số nơi trùm mền một loạt các thiết bị CNTT đặt tiền hoặc chỉ sử dụng để làm những việc không liên quan đến dạy học (chơi trò chơi, tán gẫu,…).
Bên cạnh đó còn nổi lên một vấn đề là sự lãng tránh tiếp thu CNTT của khá nhiều giáo viên. Một mặt họ không có thời gian cho việc này, mặt khác họ ngại va chạm với những tài liệu bằng tiếng Anh đi kèm với các thiết bị hay phần mềm.
Từ những thực trạng trên chúng ta thấy cần có những biện pháp khắc phục, trong đó nổi lên những vấn đề như sau:
Về thiết bị
Chúng ta cần xem xét tất cả các tài liệu hướng dẫn liên quan đến thiết bị để tận dụng các khả năng vốn có của thiết bị nhằm đạt hiệu quả cao nhất và tránh lãng phí cho việc đầu tư. Hiện nay có những thiết bị tích hợp nhiều tính năng giúp cho chúng ta tiết kiệm chi phí đầu tư và không gian sắp đặt. Ví dụ hiện nay thị trường đang thịnh hành bộ máy 4 trong 1: In (printer), Quét hình (scanner), Fax, Điện thoại (phone). Hay như máy quay phim kỹ thuật số 3 trong 1: Quay phim (camcorder), chụp hình (camera), thu âm (sound recorder).
Việc bảo trì và sử dụng thiết bị đúng cách cũng là một trong những vấn đề lâu nay không được mọi người chú ý. Trong hầu hết các gói thiết bị đều có hướng dẫn sử dụng và bảo quản thiết bị nhưng trong quá trình sử dụng chúng ta đã bỏ qua một cách tùy tiện. Ví dụ đơn giản là nếu chúng ta để máy in bị bám quá nhiều bụi sẽ dẫn đến hỏng hóc hệ thống cơ của máy và có khả năng làm hỏng máy hoàn toàn. Do đó, huấn luyện sử dụng thiết bị cũng là một việc cần làm. Chúng ta cần có chuyên gia về thiết bị để hướng dẫn cho nhiều người cùng lúc nhằm chuẩn bị cho người sử dụng những kiến thức cơ bản trong việc sử dụng, bảo trì và bảo quản thiết bị. Câu thành ngữ “không thầy đố mày làm nên” luôn đúng, và chúng ta phải hiểu “thầy” không nhất thiết phải là trực tiếp giảng dạy ta mà có thể là một cuốn sách do ai đó viết để hướng dẫn hay nói cho ta biết về điều gì đó.
Về phần mềm
Chúng ta cần quan tâm đến kỹ năng sử dụng từng phần mềm. Hiện nay, các phần mềm có rất nhiều chức năng nhưng chúng ta đã không khai thác hết các chức năng đó để đạt hiệu quả cao trong việc dạy học. Ví dụ đơn giản là nếu chúng ta chỉ sử dụng Power Point để trình chiếu nội dung bài giảng (thay vì phải viết tay lên bảng) thì quá lãng phí. Cũng giống như phần cứng, chúng ta cần có chuyên gia đào tạo sử dụng phần mềm và luôn tham khảo những cẩm nang sử dụng phần mềm để tránh việc mò mẫm hoặc không nhận ra các chức năng vốn có của nó.
Bản quyền phần mềm cũng là thách thức không nhỏ đối với việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Vì bản quyền phần mềm đang có giá rất cao so với mức lương của chúng ta nên việc sử dụng trái phép phần mềm là khá phổ biến. Việc trang bị phần mềm có bản quyền hiện nay chỉ còn biết trông chờ vào Nhà nước hoặc tự triển khai các phần mềm miễn phí. Đối với mức độ ứng dụng CNTT trong dạy học, chúng ta hoàn toàn có thể dùng các phần mềm miễn phí theo bản quyền mã nguồn mở như bảng kê dưới đây:
Tên phần mềm
Mục đích sử dụng
Tài liệu tham khảo
Hệ điều hành (Operating System)
Linux
www.redhat.com, www.linux.org, www.ubuntu.com
Hỗ trợ gõ văn bản tiếng Việt (Vietnamese Keyboard Software)
Unikey
www.unikey.org
Soạn thảo văn bản (Document Writing Processor)
Writer
www.OpenOffice.org
Quản lý bảng tính (Spreadsheet Processor)
Calc
www.OpenOffice.org
Dựng hệ thống tương tác, trình chiếu (Auhtoring Tool)
Impress
www.OpenOffice.org
Duyệt thông tin trên web (Web Browser)
Firefox
www.firefox.com
Xử lý ảnh số (Digital Photo Processor)
Picasa
Xử lý âm thanh số (Digital Sound Processor)
Audacity
Phát triển bài giảng điện tử (Authoring Tool)
eXe
Tạo bài đánh giá (Testing Processor)
Emptest
www.halfbakedsoftware.com/
Học liệu mở (Open Course)
OpenCourseWare
Về chính sách
Nhà nước cần quan tâm đến việc đầu tư đồng bộ ở mức tối thiểu cho tất cả các trường để giáo viên có cơ hội tốt hơn trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Việc đầu tư này cũng cần gấp rút và đồng loạt vì máy vi tính là thứ rất dễ lạc hậu (chu kỳ trung bình là 2 năm). Nhà nước có thể gặp khó khăn về kinh phí nhưng chúng ta tin tưởng vào việc hỗ trợ của các nước phát triển, miễn là chúng ta có một đề cương và phương thức triển khai rõ ràng.
Không chỉ đầu tư về thiết bị, Nhà nước cũng nên có chủ trương thực hiện truyền thông đến từng con người trong hệ thống giáo dục về việc ứng dụng CNTT vào dạy học, cũng như có chính sách hỗ trợ (nhất là phần ngoại ngữ căn bản trong CNTT) để mỗi người được và tự nâng cao kỹ năng CNTT của chính mình.
Trong quá trình dạy học nói chung và quá trình dạy học Tin học nói riêng, kiểm tra và đánh giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình đào tạo. Do vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 nêu rõ:“ Đổi mới giáo dục bao gồm cả đổi mới chế độ thi cử, tuyển sinh, xây dựng phương pháp, qui trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, chất lượng học sinh, sinh viên một cách khách quan, chính xác, xem đây là biện pháp cơ bản khắc phục tính chất đối phó với thi cử của nền giáo dục hiện nay, thúc đẩy việc lành mạnh hóa giáo dục ”.
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy và học, thay đổi cách thức kiểm tra đánh giá đã và đang là một hoạt động cấp thiết trong nhà trường phổ thông hiện nay. Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá là một trong những phương hướng cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học, bởi kiểm tra đánh giá là một bộ phận hợp thành rất quan trọng của quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là một khâu không thể tách rời của quá trình dạy học, việc đánh giá chính xác kết quả học tập là cơ sở để có những quan điểm đúng đắn trong quá trình dạy học.
Thực tế cho thấy hệ thống Giáo dục-Đào tạo nước ta hiện nay, mặc dù mục tiêu đào tạo đã có những thay đổi để phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội, phương pháp dạy học đã được nâng cao, nhưng cách thức và công cụ kiểm tra đánh giá mà chúng ta đang sử dụng thì chưa thực sự đổi mới. Lâu nay, chúng ta hầu như chỉ sử dụng loại bài kiểm tra tự luận để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Loại câu hỏi có nhiều bất cập vì những câu hỏi thường dài, tốn nhiều thời gian cho việc làm bài, khối lượng kiến thức được kiểm tra hạn chế, khó sử dụng các phương tiện hiện đại trong kiểm tra đánh giá chẳng hạn như máy vi tính.
Để góp phần khắc phục những nhược điểm trên, nhiều nước trên thế giới đã và đang sử dụng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh giá thành quả học tập của học sinh. Ở Việt Nam hiện nay, hình thức kiểm tra trắc nghiệm đã được dùng khá phổ biến, từ năm học 2005-2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng
2.Phương pháp kiểm tra, đánh giá; phương pháp trắc nghiệm khách quan
2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng và các hình thức kiểm tra-đánh giá việc học tập của học sinh
a. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra:
Kiểm tra là quá trình giáo viên thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát được quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin thu thập được so sánh với tiêu chuẩn nhất định.
- Đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để học sinh ngày một học tập tiến bộ hơn. Kết quả của việc đánh giá được thể hiện chủ yếu bằng điểm số theo thang điểm đã được quy định, ngoài việc đánh giá thể hiện bằng lời nhận xét của giáo viên.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đề ra cho việc học sau một giai đoạn học tập. Các mục tiêu này thể hiện ở từng môn học cụ thể. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ nắm bắt kĩ năng kĩ xảo của học sinh theo yêu cầu của chương trình đề ra. [Theo giáo dục học]
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra.
b. Vị trí, vai trò, chức năng và các hình thức của kiểm tra đánh giá
- Vị trí:
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
Vị trí của kiểm tra-đánh giá trong quá trình giáo dục được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
MỤC TIÊU
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
TRÌNH ĐỘ XUẤT PHÁT
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
KIẾN THỨC
KỸ NĂNG
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận cấu thành và là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học.
Vị trí của kiểm tra-đánh giá trong quá trình dạy học được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
Trong quá trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung, kiểm tra-đánh giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình đào tạo.
Sơ đồ các thành phần quá trình dạy học
Sơ đồ cho thấy 6 nhân tố trên đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại với nhau. Kiểm tra-đánh giá cho phép thẩm định chất lượng của quá trình đào tạo, mặt khác nó tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo, phương pháp đào tạo, thái độ học tập và giảng dạy; đảm bảo sự ngh