Trong vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã được chứng kiến nhiều thành tựu quan trọng trong nghiên cứu về nhân bản cũng như những tranh cãi về tính đạo đức trong nghiên cứu lĩnh vực này. Nghiên cứu về nhân bản trang bị cho chúng ta những hiểu biết về quá trình hình thành cơ thể sinh vật từ một tế bào đơn lẻ và quá trình các mô/tạng khỏe mạnh thay thế các mô/tạng bị tổn thương trong các cơ thể trưởng thành, mang lại cho nhân loại hy vọng chữa được nhiều bệnh mãn tính và nan giải mà hiện nay chưa có biện pháp điều trị hiệu quả.
Mặc dù những lợi ích của nhân bản thật to lớn nhưng những hiểm họa mà nó mang lại không thể lường trước được. Nhân bản vô tính không những gặp nhiều trở ngại trong kỹ thuật nhân bản mà còn vấp phải sự phản đối về mặt đạo đức và luân lí. Chúng ta nên có thái độ như thế nào đối với sự nhân bản ở người? Đó là một câu hỏi đòi hỏi chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ
Đây thực sự là vấn đề đã và đang gây nên nhiều tranh cãi trong các quốc gia và trên toàn thế giới. Đó là lí do tôi chọn đề tài tiểu luận “ Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người”
.
34 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3820 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã được chứng kiến nhiều thành tựu quan trọng trong nghiên cứu về nhân bản cũng như những tranh cãi về tính đạo đức trong nghiên cứu lĩnh vực này. Nghiên cứu về nhân bản trang bị cho chúng ta những hiểu biết về quá trình hình thành cơ thể sinh vật từ một tế bào đơn lẻ và quá trình các mô/tạng khỏe mạnh thay thế các mô/tạng bị tổn thương trong các cơ thể trưởng thành, mang lại cho nhân loại hy vọng chữa được nhiều bệnh mãn tính và nan giải mà hiện nay chưa có biện pháp điều trị hiệu quả.
Mặc dù những lợi ích của nhân bản thật to lớn nhưng những hiểm họa mà nó mang lại không thể lường trước được. Nhân bản vô tính không những gặp nhiều trở ngại trong kỹ thuật nhân bản mà còn vấp phải sự phản đối về mặt đạo đức và luân lí. Chúng ta nên có thái độ như thế nào đối với sự nhân bản ở người? Đó là một câu hỏi đòi hỏi chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ
Đây thực sự là vấn đề đã và đang gây nên nhiều tranh cãi trong các quốc gia và trên toàn thế giới. Đó là lí do tôi chọn đề tài tiểu luận “ Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người”
.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VÀ KỸ THUẬT NHÂN BẢN VÔ TÍNH
1. Khái niệm về nhân bản vô tính
Nhân bản (cloning) là tạo ra “bản sao” của một tế bào hoặc một sinh vật. Các “bản sao” được tạo ra bằng kỹ thuật cloning được gọi là các clone, các clone này giống y hệt nhau về mặt di truyền.[ 3]
Nhân bản người và động vật có thể xảy ra trong tự nhiên hoặc nhân tạo. Đây là một hình thức sinh sản đặc biệt mà kết quả là tạo ra các cơ thể giống hệt nhau về gen. Có hai kiểu nhân bản động vật là nhân bản phôi (nhân bản từ các tế bào phôi) và nhân bản vô tính từ các tế bào trưởng thành. Nhân bản phôi người và động vật có thể xẩy ra trong tự nhiên hoặc nhân tạo (các trường hợp sinh đôi cùng trứng là ví dụ điển hình của nhân bản phôi người và động vật trong tự nhiên) còn nhân bản vô tính từ các tế bào trưởng thành chỉ có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm.
Trong nhân bản vô tính từ một tế bào trưởng thành, “bản sao” (clone) sẽ là một động vật giống y chang “bố/mẹ” về mặt di truyền. “Bố/mẹ” này chính là động vật cho nhân tế bào lưỡng bội để nhân bản. Nhân bản vô tính có thể thực hiện được với các tế bào có nhân lưỡng bội lấy từ phôi, thai, hoặc từ một động vật trưởng thành, thậm chí có thể từ các mô đông lạnh. [3,6]
2. Kỹ thuật nhân bản
Nhân bản phôi động vật (cloning) hiện nay dùng một trong 3 kỹ thuật sau: Phân tách các tế bào blastomere (blastomere separation), chia cắt phôi túi (blastocyst division) và kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân (somatic cell nuclear transfer).
2.1 Nhân bản phôi bằng phân tách các tế bào blastomere (blastomere seperation):
Đầu tiên trứng và tinh trùng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi. Phôi này được nuôi cấy cho phát triển đến giai đoạn 2 hoặc 4 tế bào (mỗi tế bào trong khối 2 hoặc 4 tế bào này được gọi là một blastomere). Đến giai đoạn này người ta tách bỏ màng bọc phôi và chuyển phôi vào một môi trường đặc biệt làm cho các blastomere tách rời nhau ra. Mỗi blastomere này sau đó được nuôi cấy riêng biệt cho phép hình thành nên một phôi. Phương pháp này có thể tạo ra tối đa là 4 phôi bản sao giống hệt phôi ban đầu về mặt di truyền. Mỗi phôi mới được tạo ra bằng phương pháp này sau đó có thể đem cấy vào tử cung một “mẹ nuôi” cho phép phôi phát triển thành thai nhi trong quá trình mang thai của “mẹ nuôi”. Trong kỹ thuật này, các cá thể “bản sao” vẫn mang bộ gen lưỡng bội có nguồn gốc từ hai bố-mẹ.[3,6]
2.2 Nhân bản phôi bằng chia cắt phôi túi (blastocyst division)[3,6]
Đầu tiên trứng và tinh trùng cũng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi. Nhưng khác với kỹ thuật phân tách blastomere, phôi này được nuôi cấy cho phân chia tới khi tạo thành blastocyst. Lúc này người ta chia cắt blastocyst đó thành 2 phần và cấy vào hai nửa đó vào tử cung của một “mẹ nuôi”. Qua quá trình mang thai tự nhiên, hai nửa blastocyst này phát triển thành hai cá thể sinh đôi giống hệt nhau. Cũng như các “bản sao” được tạo ra bằng kỹ thuật phân tách blastomere, các “bản sao” được tạo ra trong kỹ thuật chia cắt blastocyst cũng mang bộ gen lưỡng bội có nguồn gốc từ hai bố-mẹ.
2.3 Nhân bản bằng chuyển nhân tế bào thân (Nuclear Transplanation)
Để nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân cần có hai tế bào, một tế bào trứng và một tế bào cho. Qua thực nghiệm thấy trứng chưa thụ tinh phù hợp nhất cho kỹ thuật này vì dường như nó dễ dàng dung nạp nhân cho hơn. Tế bào trứng phải được loại bỏ nhân, quá trình này làm mất đi hầu hết thông tin di truyền của trứng. Bằng các kỹ thuật khác nhau, tế bào thân được đưa về giai đoạn G0 (pha không hoạt động) khi đó hoạt động sinh học của tế bào thân được “tắt” nhưng tế bào không chết. Ở trạng thái này nhân tế bào thân đã sẵn sàn được trứng chấp nhận. Đặt nhân tế bào cho vào trong tế bào trứng đã loại nhân. Sau đó tế bào trứng được kích thích phát triển thành phôi trên in vitro và được đưa vào tử cung “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai. Nếu tất cả các khâu trong quá trình này được thực hiện một cách chính xác, một bản sao hoàn hảo của động vật cho nhân sẽ ra đời.
Nếu trứng được dùng trong quy trình này được lấy từ cùng cá thể cho nhân tế bào thân, kết quả sẽ là một phôi vô tính thừa hưởng toàn bộ vật chất di truyền của cá thể đó (cả DNA nhân và DNA ty thể) bởi vì DNA ngoài nhân (DNA ty thể) có nguồn gốc từ bào tương tế bào trứng của cơ thể “mẹ”. Nhiều “bản sao” có thể được tạo ra bằng cách chuyển các nhân giống nhau vào các trứng lấy từ một cơ thể cho duy nhất. Nếu các nhân tế bào thân và trứng lấy từ các cá thể khác nhau, chúng sẽ không hoàn toàn giống cơ thể cho nhân vì các “bản sao” sẽ khác ở một số gen ty thể. [3,5]
* Tóm tắt quy trình nhân bản bằng phương pháp chuyển nhân gồm các bước sau:
1. Lấy tế bào trứng của cơ thể “mẹ”, hút bỏ nhân đơn bội.
2. Lấy tế bào thân trưởng thành (máu, da …) của cá thể sẽ nhân bản, đồng bộ hóa chu trình tế bào của tế bào này, hút lấy nhân lưỡng bội.
3. Đưa nhân lưỡng bội vào trong trứng đã hút bỏ nhân nói trên (bằng tiêm trực tiếp hoặc bằng kích thích xung điện) để tạo nên “hợp tử” hay “phôi vô tính”.
4. Kích thích để “hợp tử” tiếp tục phát triển và phân chia tạo nên khối blastocyst
5. Sau đó khối blastocyst này có thể được:
+ Nuôi cấy trong labo nhằm để lấy tế bào gốc, qua đó có thể tạo ra các clone tế bào gốc phôi mang gen giống với cơ thể cho tế bào thân (Mục đích nhân bản trị liệu)
+ Hoặc đem cấy vào tử cung của một “mẹ nuôi” để cho phát triển thành bào thai, qua đó có thể tạo nên một “bản sao” giống hệt cơ thể cho nhân tế bào thân (Mục đích nhân bản vô tính động vật/người)
H: Quy trình chung nhân bản vô tính người và động vật
Như vậy, vật liệu của nhân bản phôi bằng kỹ thuật phân tách blastomere và phân chia blastocyst là phôi được thụ tinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (có sự tham gia của trứng và tinh trùng) còn vật liệu của nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào là các “phôi vô tính” được tạo ra bằng cách chuyển nhân một tế bào thân sang một tế bào trứng đã hút bỏ nhân. Cả phôi thụ tinh nhân tạo và phôi được tạo ra bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân đều là các tế bào gốc toàn năng, có khả năng phát triển thành một cơ thể hoàn chỉnh. Khác với nhân bản bằng kỹ thuật phân tách blastomere và phân chia blastocyst, các động vật được nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân chỉ mang vật liệu di truyền của một bố hoặc mẹ. [3]
2.4 Nhân bản vô tính (reproductive cloning) người và động vật có vú
Nhân bản vô tính, còn gọi là nhân bản DNA trưởng thành, là một dạng sinh sản vô tính nhân tạo dựa trên kỹ thuật nhân bản. Kỹ thuật nhân bản vô tính được dùng với mục đích tạo ra một “bản sao” giống hệt một động vật hoặc một người đang tồn tại. Kỹ thuật này đã được dùng để nhân bản cừu và các động vật có vú khác. [web1,2]
Nhân bản vô tính người và động vật được thực hiện dựa trên kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân. Quy trình này bắt đầu bằng việc thay thế nhân đơn bội của một tế bào trứng bằng nhân lưỡng bội lấy từ một tế bào thân của cá thể hoặc phôi sẽ được nhân bản. Trứng này sau đó được kích thích cho phép phân chia hình thành blastocyst. Sau đó cấy blastocyst này vào tử cung của một “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai và cho ra đời một cá thể. Cá thể này sẽ là một “bản sao” của cá thể đã cho nhân tế bào. DNA trong nhân tế bào của cá thể “bản sao” được thừa hưởng chỉ từ một bố/mẹ (bản gốc) duy nhất. Cho tới nay có hai kỹ thuật chuyển nhân được dùng trong nhân bản vô tính động vật:
* Kỹ thuật Roslin (1996)
Do Ian Wilmut và Keith Campbell ở viện Roslin (Scotland) dùng để nhân bản cừu Dolly
Đầu tiên một tế bào (tế bào cho thông tin di truyền) được lấy ra từ tuyến vú của một cừu mẹ. Tế bào này sau đó được nuôi cấy nhân lên trên in vitro nhằm tạo ra nhiều bản sao nhân tế bào. Sau đó một tế bào được lấy ra khỏi nuôi cấy và đồng bộ hóa chu trình tế bào (synchronizing cell cycles) bằng cách để đói trong môi trường thiếu dinh dưỡng (lượng chất dinh dưỡng chỉ vừa đủ giữ cho tế bào không chết). Trong điều kiện này tế bào tắt tất cả các gen hoạt động tế và chuyển vào pha ngủ G0. Loại bỏ nhân của tế bào trứng chưa thụ tinh lấy từ một cừu “mẹ nuôi”, đặt tế bào trứng này sát vách tế bào cho (đã đưa về pha G0). Sau khi rút nhân trứng từ 1 đến 8 tiếng, cho một dòng điện chạy qua hai tế bào này, shock có tác dụng hòa tế bào trứng (đã bỏ nhân) và tế bào cho nhân với nhau, đồng thời khởi động tế bào mới tạo thành phát triển thành phôi. Nếu phôi đó sống, nó được cho phát triển trong khoảng 6 ngày và cuối cùng được đặt vào tử cung “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai và sinh sản như bình thường. Kỹ thuật tạo ra cừu Dolly có tỷ lệ thành công là 1/277 [web5]
H: Quy trình nhân bản cừu Dolly
* Kỹ thuật Honolulu
Kỹ thuật này được Teruhiko Wakayama và Ryuzo Yanagimachi ở đại học tổng hợp Hawai giới thiệu năm 1998. Kỹ thuật của Honolulu hiệu quả hơn nhiều (thành công 3 lần trong mỗi 100 lần thực hiện) so với kỹ thuật của Roslin (thành công 1 lần trong 277 lần thực hiện)
Wakayama thực hiện đồng bộ hóa chu trình tế bào bằng phương pháp khác với Wilmut. Wilmut dùng tế bào tuyến vú, một tế bào phải được đưa vào giai đoạn G0. Wakayama ban đầu dùng ba loại tế bào: các tế bào Sertoli (tế bào lát ống tinh hoàn), các tế bào não, và các tế bào gò trứng (cumulus cells). Bình thường trong cơ thể cả hai loại tế bào Sertoli và tế bào não đã được duy trì ở pha G0 và các tế bào gò trứng hầu như luôn ở pha G0 hoặc G1 (trạng thái ngủ hay tình trạng ẩn dật).
Các trứng chuột chưa thụ tinh được dùng để nhận nhân cho. Sau khi loại bỏ nhân, đưa nhân tế bào cho vào trong tế bào trứng bằng tiêm nhân trực tiếp. Nhân của tế bào cho được lấy ngay trong vài phút khi tế bào thân được lấy từ cơ thể chuột. Khác với kỹ thuật Roslin, kỹ thuật Honolulu không nuôi cấy tế bào thân. Sau một giờ, tế bào trứng chấp nhận nhân mới. Trứng được để yên thêm 5-6 giờ nữa rồi đưa vào ủ trong môi trường nuôi cấy hóa học (có chứa chất cytochalasin B) để khởi động tế bào phân chia. Môi trường này có vai trò giống shock điện nhưng diễn ra êm ái hơn và ít gây tổn thương tế bào hơn. Sau khi được khởi động, trứng này sẽ phát triển thành phôi, phôi này sau đó được cấy vào tử cung “mẹ nuôi” cho mang thai và sinh nở bình thường.
Kỹ thuật Honolulu thành công nhất với các tế bào gò trứng (cumulus cell), vì lý do này các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sử dụng tế bào này. Kỹ thuật Honolulu được cho là ưu việt hơn kỹ thuật Roslin và đã được ứng dụng rộng rãi để nhân bản vô tính các động vật khác.[web5,6]
Một số khác biệt giữa kỹ thuật Roslin và Honolulu
Kỹ thuật Roslin
Kỹ thuật Honolulu
Tế bào cho:
- Là tế bào tuyến vú, cần được đưa về giai đoạn G0.
- Được nuôi cấy nhân lên ngoài cơ thể
Tế bào cho:
- Là tế bào tự nhiên đã ở trạng thái ngủ (giai đoạn G0 hoặcc G1): các tế bào cumulus, tế bào não, tế bào sertoli
- Dùng ngay, không nuôi cấy ngoài cơ thể
- Đưa nhân tế bào cho vào tế bào nhận bằng shock điện
- Đưa nhân tế bào cho vào tế bào nhận bằng tiêm trực tiếp
- Đồng thời với nhận nhân trứng được dòng điện hoạt hóa luôn.
- Trứng sau nhận nhân (“thụ tinh”) được để yên (không có kích thích nào khác) 5-6 giờ để cho phép chấp nhận nhận mới và có thời gian tái lập trình nhân tế bào
- Hoạt hóa tế bào phân chia phát triển thành phôi bằng shock điện
- Hoạt hóa tế bào phân chia phát triển thành phôi bằng ủ trong môi trường hóa học có chứa cytochalasin B.
- Tỷ lệ nhân bản thành công cừu Dolly thấp (1 trong số 277 lần làm)
- Tỷ lệ nhân bản thành công trên chuột rất cao (3 trong số mỗi 100 lần làm)
II. NHÂN BẢN VÔ TÍNH Ở ĐỘNG VẬT
1. Một số thành tựu trong nhân bản vô tính động vật. [3]
1959 - Thỏ ra đời bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
1968 - Edwards và Bavister thụ tinh trứng người trên in vitro.
1979 - Karl Illmensee công bố nhân bản được ba con chuột từ một phôi ban đầu.
1984 - Steen Willadsen nhân bản thành công cừu từ các tế bào phôi bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào phôi.
1986 - Steen Willadsen nhân bản một con bò từ các tế bào phôi một tuần tuổi đã biệt hóa.
1993 - Bò được tạo ra bằng cách chuyển nhân từ các tế bào phôi nuôi cấy
1996 - Ian Wilmut và Keith Campbell ở viện Roslin, Scotland nhân bản thành công cừu Dolly từ các tế bào tuyến vú của một con cừu mẹ. [web5]
H: Tiến sĩ - Ian Wilmut và chú cừu Dolly
1997- các nhà khoa học đã nhân bản được chuột. Cumulina là một loại chuột nhà màu nâu quen thuộc. Cumulina được nhân bản vô tính từ những tế bào trưởng thành tại ĐH Hawaii. Cô chuột mẹ đã sống đến trưởng thành, sinh thêm hai chú chuột con, trước khi lìa đời vào tháng 5/2000.
1998 - Ryuzo Yanagimachi, Toni Perry, và Teruhiko Wakayama ở đại học Hawaii công bố đã nhân bản thành công 50 chuột từ các tế bào đã trưởng thành.
1999 - Khỉ Rhesus cái Tetra được nhân bản bằng phân chia các tế bào phôi sớm
2001- Nỗ lực đầu tiên của các nhà nhân bản học là nhân bản vô tính một loài bò rừng sắp bị tiệt chủng, tên là Noah. Noah đã được nhân bản tại Mỹ, nhưng đã chết sau khi chào đời 48 giờ.[web7]
2002 - Thỏ và mèo được nhân bản từ các tế bào trưởng thành. Chú mèo nhân bản CopyCat đã chào đời vào năm 2002, tại Texas. Với một chú mèo đực bình thường, CopyCat đã làm mẹ của ba chú mèo khác vào tháng 9/2006.
2003 - Cừu Dolly chết ngày 14 tháng 2 năm 2003 vì bệnh phổi và khớp trầm trọng khi được 6 tuổi trong khi một con cừu bình thường sống được 12 năm. Việc nhân bản vấp phải vấn đề lão hóa
5/2003, Chú ngựa tên Prometeap, phiên bản nhân bản vô tính đầu tiên của loài ngựa được sinh ra tại Ý.[web11]
Chú ngựa tên Prometeap sinh tại Ý (Ảnh: BBC)
4/8/2005: nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc do Giáo sư Woo Suk Hwang, Seoul National University đứng đầu đã loan báo rằng họ đã tạo dòng thành công 2 chó săn Afghan bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào da trưởng thành vào tế bào trứng chín in vitro.
H: chó săn Afghan sinh ra nhờ nhân bản vô tính
[web 18]
30/11/2006, Nhóm nghiên cứu của TS Bùi Xuân Nguyên, Viện Công nghệ sinh học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã thành công trong tạo phôi nhân bản vô tính thực hiện trên các loài chuột, trâu, bò, gấu, lợn, khỉ và sao la
2007 - Các nhà khoa học Mỹ đã nhân bản thành công chuột từ tế bào gốc của chuột trưởng thành được lấy từ da của loài gặm nhấm này. [web 16]
H: Hình ảnh chuột nhân bản từ tế bào gốc lấy từ da
11/2008, các nhà khoa học Nhật Bản đã thành công trong việc tạo chuột sống từ mẫu chuột chết cách đó 16 năm [web 21]
H: Mẫu chuột để đông lạnh sau 16 năm
H: Hậu duệ của chuột chết
2008- Các nhà khoa học Anh lần đầu tiên nhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành.
Những bước đột phá công nghệ đã cho phép các nhà khoa học Anh lần đầu tiên nhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành. Công trình nghiên cứu này do Shoukhrat Mitalipov, một nhà khoa học gốc Nga tại Trung tâm Nghiên cứu Động vật Linh trưởng Quốc gia Oregon - tại Beaverton, Anh, chủ trì. [ web 20]
H: Các nhà khoa học Anh lần đầu tiênnhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành. (Ảnh: www.grg.org)
06/08/2008- Hàn Quốc nhân bản thành công chó vô tính Các nhà khoa học thuộc miền Nam Hàn Quốc vừa mới công bố họ đã thành công trong việc nhân bản những chú chó vô tính đầu tiên trên thế giới [web 19]
H: Bà Bernann McKinney ôm trên tay một trong số chú chó nhân bản vô tính (Ảnh: Koreatimes.co.kr)
22/4/2009 các nhà khoa học Hàn Quốc thông báo đã nhân bản vô tính một con lợn để lấy các cơ quan nội tạng đã biến đổi gen cấy ghép cho người
H: Lợn nhân bản để lấy cơ quan nội tạng
2009- Lạc đà nhân bản vô tính đầu tiên trên thế giới
Thành phố Dubai thuộc Các tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất vừa công bố một thành tựu khoa học mới: lạc đà được nhân bản vô tính đầu tiên trên thế giới. [web18]
H: Con lạc đà Injaz chào đời hôm 8/4/2009.
Ti Injaz được nhân bản từ một con lạc đà bị giết lấy thịt năm 2005. Các nhà khoa học đã sử dụng ADN được tách từ tế bào trong buồng trứng của con vật đã chết và cấy ghép ADN đó vào trứng của bà mẹ thay thế để tạo ra phôi. Kết quả kiểm tra cho thấy Injaz mang ADN của con lạc đà đã chết chứ không phải lạc đà mẹ sinh ra nó.
2009- Iran nhân bản vô tính bò
Giám đốc viện Nghiên cứu Hoàng gia Iran, tiến sĩ Mohammed Hossein Nasr E Isfahani cho biết nước này vừa nhân bản thành công một con bò đực có tên Bonyana. Con bò chào đời ngày 11/7 tại thành phố Isfahan, miền trung Iran và là con bò nhân bản vô tính đầu tiên ở khu vực Trung Đông [web 21]
H: Con bò đực được nhân bản vô tính đầu tiên tại Iran có tên Bonyana. (Ảnh: Daylife)
2. Một số quan điểm về nhân bản vô tính động vật:
- Phương pháp này giúp lưu giữ các nguồn gene quí.
- Có ý nghĩa trong nghiên cứu y học.
- Nhân bản các động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Với những thành tựu của nhân bản vô tính, trong tương lai việc phục hồi được một số động vật đã tuyệt chủng là khả năng có thể
- Tạo ra nguồn thực phẩm từ động vật nhân bản vô tính an toàn. Nhân bản động vật cũng có tiềm năng to lớn trong ngành công nghiệp chăn nuôi, cho phép nhân bản các vật nuôi mang các đặc tính quý báu (lợn siêu nạc, bò siêu sữa…).
- Khoảng cách nhân bản vô tính ở động vật đến việc nhân bản con người là một khoảng ngắn
- Dường như chỉ tạo ra những sinh vật có vấn đề về sức khỏe: giảm tuổi thọ, lão hóa sớm…. Năm 2003 cừu Dolly chết do các căn bệnh của tuổi già (viêm khớp và viêm phổi nặng) khi nó được 6 tuổi, trong khi tuổi thọ của một cừu bình thường trung bình là 12. Các nhà khoa học nhận thấy rằng các tế bào cừu Dolly già hơn tuổi của nó đến 6 tuổi. Cừu Dolly được tạo ra từ một con cừu 6 tuổi, như vậy khi được sinh ra, bộ gen của cừu Dolly đã không đặt lại đồng hồ sinh học về 0 mà vẫn ghi nhớ tuổi của nó trước đây. Như vậy về gen, cừu Dolly là một chú cừu 6 tuổi được sinh ra. Hiện tại nhân bản vô tính đang phải đối mặt với vấn đề lão hóa. Trong khi đó nhân bản từ phôi không gặp phải vấn đề này.
- Tổ chức FAWC (1998) đã liệt kê một số yêu cầu đòi hỏi cần phải có những hiểu biết đầy đủ trước khi tạo dòng ở động vật nhằm bảo vệ các loài động vật.[3,7]
III. NHÂN BẢN VÔ TÍNH Ở NGƯỜI.
1. Nhân bản trị liệu từ tế bào gốc phôi:
1.1 Đặc điểm của tế bào gốc phôi [2]
Tế bào gốc phôi (Embryonic stem cells-ESCs)là các tế bào gốc vạn năng được lấy từ phôi giai đoạn sớm (4-7 ngày tuổi). Ở giai đoạn này phôi có hình cầu và được gọi là phôi túi (blastocyst). Blastocyst có cấu trúc gồm 3 thành phần: Một lớp tế bào bên ngoài (trophoblast), một khoang chứa đầy dịch và một nhóm có khoảng 30 tế bào vạn năng nằm lệch về một cực gọi là khối tế bào bên trong (inner cellmass). Dùng một loại enzyme đặc biệt để phân tách cáctế bào của khối này sẽ thu đượccác tế bào gốc phôi. H: Tế bào gốc phôi
Các mẫu tế bào gốc phôi người hiện đang được nghiên cứu. Một vài nhóm nghiên cứu đang tìm hiểu liệu tế bào gốc phôi người có sở hữu cùng những đặc tính giống tế bào gốc phôi chuột hay không. Do tế bào gốc phôi người chỉ mới được tách trong thời gian gần đây, do đó vốn hiểu biết của chúng ta còn hạn chế về cách thức phân chia nơi tế bào gốc. Tiến hành nghiên cứu trên hệ thống cơ thể con người cũng khó khăn hơn so với chuột. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã và đang đạt đư