Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân lực, hay nói cách khác là kết quả GD-ĐT chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ nhiều năm qua, từ ngày Đảng và Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép" của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý nghĩa của nó. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO, nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực đã được khẳng định là chìa khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả của khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát triển kinh tế là vô cùng nặng nề.
Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp - đối tượng có nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo - hay nói nôm na là chuyển từ "đào tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là rất cần thiết. Nó không những tạo ra bước đệm giúp chúng ta nhanh chóng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực của hiện tại mà còn trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai.
Trong bài viết này, tôi đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì chúng ta đã thực hiện. Qua đó thấy được con đường mà toàn nền giáo dục Việt Nam đã chọn có đã đi theo đúng nhu cầu của xã hội hay chưa hay cần phải sửa đổi, bổ xung cho hoàn thiện hơn nữa để con đường đó thực sự xuất phát từ nhu cầu xã hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động chất lượng cao tăng lên không ngừng của xã hội.
Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ rất lâu rồi, ở rất nhiều quốc gia từ Châu Á đến Châu Âu, Châu Mỹ. Việc Việt Nam đến nay mới nhận thấy hết ý nghĩa to lớn của đào tạo theo nhu cầu xã hội trong vấn đề giải quyết nhu cầu lao động ngày càng cao của các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung và quyết định tiến hành triển khai rộng khắp trong cả nước tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải là không có ý nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục nước nhà sẽ còn đi đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu về nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên để có thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên thế giới cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này.
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những sự góp ý của thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề mà tôi nghiên cứu.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
69 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Giáo dục và Đào tạo GD – ĐT
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Đại học ĐH
Cao đẳng CĐ
Trung học chuyên nghiệp THCN
Trung cấp chuyên nghiệp TCCN
Trung học cơ sở THCS
Trung học chuyên nghiệp THCN
Dạy nghề DN
Trung học phổ thông THPT
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH
Kinh tế - xã hội KT – XH
Công nghiệp hoá CNH
Việt Nam VN
Đại học quốc gia ĐHQG
Công nghệ thông tin CNTT
Công nhân CN
MỞ ĐẦU
Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân lực, hay nói cách khác là kết quả GD-ĐT chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ nhiều năm qua, từ ngày Đảng và Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép" của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý nghĩa của nó. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO, nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực đã được khẳng định là chìa khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả của khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát triển kinh tế là vô cùng nặng nề.
Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp - đối tượng có nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo - hay nói nôm na là chuyển từ "đào tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là rất cần thiết. Nó không những tạo ra bước đệm giúp chúng ta nhanh chóng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực của hiện tại mà còn trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai.
Trong bài viết này, tôi đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì chúng ta đã thực hiện. Qua đó thấy được con đường mà toàn nền giáo dục Việt Nam đã chọn có đã đi theo đúng nhu cầu của xã hội hay chưa hay cần phải sửa đổi, bổ xung cho hoàn thiện hơn nữa để con đường đó thực sự xuất phát từ nhu cầu xã hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động chất lượng cao tăng lên không ngừng của xã hội.
Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ rất lâu rồi, ở rất nhiều quốc gia từ Châu Á đến Châu Âu, Châu Mỹ... Việc Việt Nam đến nay mới nhận thấy hết ý nghĩa to lớn của đào tạo theo nhu cầu xã hội trong vấn đề giải quyết nhu cầu lao động ngày càng cao của các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung và quyết định tiến hành triển khai rộng khắp trong cả nước tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải là không có ý nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục nước nhà sẽ còn đi đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu về nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên để có thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên thế giới cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này.
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những sự góp ý của thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề mà tôi nghiên cứu.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU
Quan điểm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội ở nước ta đã xuất hiện từ rất lâu song để nhận thấy hết được ý nghĩa của nó thì phải đến giai đoạn hiện nay vấn đề này mới thực sự được quan tâm và trở thành vấn đề lớn của cả nước. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng quy mô, nâng cao dân trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực đào tạo trong những năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH).
Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị giáo dục đào tạo (năm 1996), Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH hiện nay sự phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) trước mắt và tương lai đòi hỏi cấp bách những năng lực mới như năng lực thích ứng với sự thay đổi, năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhập thường xuyên kiến thức mới, năng lực sáng tạo và nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế … đó là những năng lực cần thiết để tìm ra những cách làm rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước đi trước nhằm đạt mục tiêu CNH – HĐH. Để có được những năng lực đó thì ngay từ bây giờ các trường, các cơ sở đào tạo phải chuyển hướng đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội, hướng giáo dục đào tạo phải trở thành một hệ thống mở: mở đối với đại chúng, mở đối với thực tế kinh tế xã hội, mở đối với thế giới và thời đại có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trong tương lai không xa chúng ta có được nguồn lao động đáp ứng được các yêu cầu của xã hội”.
Bên cạnh những quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước thì sự phát triển của thị trường ngày một nhanh chóng cũng đòi hỏi phải có một phương thức giáo dục mới ra đời thay thế cho phương thức giáo dục cũ còn nhiều hạn chế để tạo ra một nguồn lao động vừa mạnh về số lượng vừa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Cụ thể là:
- Sự hình thành những ngành nghề mới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng phát triển cá nhân cũng đòi hỏi được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo, bồi dưỡng riêng biệt.
- Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác
- Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu này.
- Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc… Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt.
Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần, nó góp phâng quan trọng vào việc tạo ra một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp trên thị trường đồng thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người thất nghiệp trong nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm việc.
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn.
Những quan niệm trên đều chưa đầy đủ và sát với ý nghĩa của bản thân nó. Dưới đây tôi xin nêu ra cách khái niệm sau về đào tạo theo nhu cầu theo tôi là phù hợp nhất.
Đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức đào tạo mà ở đó: Đào tạo cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao nhiêu? được định hướng bởi nhu cầu đào tạo xã hội.
Đào tạo cái gì? Trả lời được câu hỏi này chúng ta sẽ xác định được mục đích của đào tạo như đào tạo ra lớp bác sỹ, kỹ sư, các nhà ngoại giao…, đồng thời cũng xác định rõ những bác sỹ, kỹ sư, nhà ngoại giao đó phái có những kỹ năng gì để có thể đảm nhận được công việc Ví dụ như để trở thành một nhà ngoại giao đòi hỏi ngoài những yêu cầu cơ bản như có ý thức kỷ luật cao, có chuyên môn, trình độ nghề nghiệp cao phải có kỹ năng sau:,có khả năng giao tiếp tốt, biết nhiều thứ tiếng, năng động, có khả năng làm việc theo nhóm . Như vậy khi tiến hành giáo dục và đào tạo chúng ta phải xác định được cụ thể rõ xã hội cần những con người trong những lĩnh vực hoạt động gì, ở trình độ, kỹ năng ra sao. Để tránh gây lãnh phí thời gian và tiền bạc thì việc điều tra, nghiên cứu, nắm bắt được nhu cầu xã hội trong tương lai gần và xa là rất quan trọng.
Đào tạo như thế nào? Câu hỏi này giúp chúng ta tìm ra được để đào tạo có hiệu quả cao thì phải có một cách thức, phương thức đào tạo như thế nào cho đúng. Hiện nay, tại Việt Nam cũng như trên thế giới tồn tại rất nhiều phương thức đào tạo trong nhà trường rất khác nhau như đào tạo theo kiểu máy móc, cổ truyền thầy giảng gì trò biết nấy; hoặc học sinh tự nghiên cứu là chính đến lớp thầy chỉ giải đáp những thắc mắc của học sinh mà thôi; rồi có cả hình thức đào tạo trực tuyến….Tuy nhiên tùy theo điều kiện mỗi nơi mà trong trường hợp này cách thức đào tạo đó là hiệu quả song khi áp dụng cho nơi khác lại nhận được những kết quả trái ngược. Do đó để tìm ra được một phương thức đào tạo cho hiệu quả cũng cần phải xét đến yếu tố con người và xã hội của bản thân khu vực đó.
Đào tạo bao nhiêu? Bao nhiêu ở đây muốn nói đến số lượng con người mà chúng ta sẽ đào tạo trong một thời kỳ sao cho đủ để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để xác định được một cách chính xác con số này không phải là điều đơn giản. Con số này không chỉ dừng lại ở con số chung chung cho toàn xã hội mà điều quan trọng là chúng ta phải xác định rõ xem ứng với mỗi ngành nghề cụ thể con số này sẽ là bao nhiều. Đây là điều khiến cho các nhà hoạch định cảm thấy rất khó khăn bởi lẽ xã hội luôn biến đổi không ngừng, ngành nghề hôm nay thịnh hành thì ngày mai lại có thể trở nên quá nhàm chán và một ngành nghề mới lại xuất hiện và lên ngôi. Vì vậy việc xác định cụ thể số lượng đào tạo trong mỗi ngành nghề có ý nghĩa rất quan trọng, tránh được tình trạng thất nghiệp do thừa nhân lực ở khu vực này và thiếu nhân lực ở khu vực khác do không dự báo được hết nhu cầu xã hội.
Như vậy, với cả 3 câu hỏi trên muốn tìm được câu trả lời chuẩn xác phải căn cứ vào nhu cầu xã hội. Hay nói chính xác nhu cầu của xã hội sẽ là cái mốc để giáo dục - đào tạo dõi theo và điều chỉnh phương thức hoạt động của mình cho phù hợp.
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu:
- Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu hiện tại của thị trường đang thiếu lao động trong những ngành nghề gì thì đào tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên sau một thời gian làm việc nếu không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này thì căn cứ vào tình hình phát triển hiện tại của nền kinh tế trong nước và xu thế phát triển của thế giới để đưa ra nhưng dự đoán về những ngành nghề sẽ phát triển trong tương lai. Việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo dài hạn (từ 3 đến 6 năm), những lao động được tạo ra từ đây thường có trình độ cao; khả năng học hỏi, tiếp cận những thành tựu của khoa học công nghệ, thích ứng với sự thay đổi là nhanh. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là do thời gian đào tạo là dài nên đòi hỏi việc dự báo phải có tính chính xác cao để tránh sự lãng phí nguồn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu
3.1. Vai trò
Đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn thay đổi không ngừng và đi lên theo hướng chuyển dần từ lao động thủ công, thô sơ sang lao động bằng chất xám do đó nhu cầu của thị trường về nguồn lao động không còn đơn thuần chỉ dừng lại ở đức tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm như thời xa xưa nữa mà họ còn phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vần đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng ăn nói diễn đạt …Do đó nếu không nhanh chóng nắm bắt được những đòi hỏi về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung về lao động thì hàng năm sẽ xảy ra hiện tượng một lượng lớn lao động qua đào tạo sẽ thất nghiệp trong ngành nghề này và thiếu cục bộ trong ngành nghề khác. Điều này gây lãng phí rất lớn cho bản thân người lao động, nhà trường và xã hội. Như vậy phương thức đào tạo theo nhu cầu sẽ khắc phục được hạn chế cơ bản của cách thức giáo dục trước đây khi còn quá nặng nề, móc máy trong giảng dạy mà chưa chú tâm đến chất lượng đầu ra.
Qua đây, tôi xin nêu ra những vai trò và ý nghĩa cơ bản của phương thức đào tạo theo nhu cầu xã:
- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt ra. Khi đã tiến hành đào tạo theo nhu cầu, mỗi công việc, ngành nghề cụ thể sẽ quy định rõ ở mỗi trình độ nhất định cần những kỹ năng nào để có thể đảm nhận được công việc đó. Do khi tham gia các khóa học nghề, cũng như đào tạo tai các trường cao đẳng, đại học sinh viên sẽ được được đào tạo một cách bài bản các kỹ năng đó và khi ra trường sinh viên có thể bắt tay vào công việc luôn.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các đơn vị tuyển dụng. Hiện nay đa số sinh viên ra trường đều rất khó có thể xin đươck một công việc theo đúng những gì đã học mặc dù nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp là rất cao do đó rất khó cho doanh nghiệp có thể tuyển được số lượng lao động như mong muốn. Phần lớn là do những kỹ năng sinh viên có được trong quá trình học ở nhà trườn là rất ít so với yêu cầu đòi hỏi của doanh nghiệp. Song khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu thì số lượng lao động mà thị trường cần đã được dự báo trước và chất lượng lao động đã được nâng cao nên khả năng doanh nghiệp tuyển không đủ lượng cần là rất hạn chế.
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân lực từ nước ngoài chảy vào, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước của các đơn vị tuyển dụng trong nước. Do lao động trong nước không đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến những lao động nước ngoài (thường thấy khi tuyển các vị trí cấp cao như giám đốc, CEO…). Nhưng khi áp dụng đào tạo theo nhu cầu thì vấn đề này sẽ được giải quyết do lao động của ta sẽ được đào tạo theo đúng nhưng gì doanh nghiệp cần và được tiếp cận công nghệ mới một cách liên tục do đó sẽ nhanh chóng nâng cao tay nghề của bản thân.
- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người lao động khi phải đào tạo lại.Khi đào tạo theo nhu cầu, người lao động đã được đào tạo theo đúng những yêu cầu mà doanh nghiệp mong muốn từ họ do đó người lao động có thể làm được ngay những công việc ở những vị trí mà họ đã dự tuyển, khi đó doanh nghiệp không phải tiến hành đào tạo lại và sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí.
3.2. Đặc điểm
Đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là một phương thức đào tạo mới trên thế giới hiện nay, song đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó cần phải giải quyết kịp thời để có nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực tốt đáp ứng nhu cầu đòi hỏi trước mắt và lâu dài của xã hội. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt công tác này thì chúng ta cần hiểu rõ đào tạo theo nhu cầu cần xác định cụ thể, rõ ràng nó cần những yếu tố nào, cách thức vận dùng điều hành những yếu tố đó có khác gì so với trước đây để tránh việc đi sai hướng, lòng vòng, kém hiệu quả. Dưới đây tôi xin nêu ra một số đặc điểm của phương thức đào tạo theo nhu cầu:
- Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường đòi hỏi cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu theo đúng những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của người học và của các cơ quan sử dụng lao động.Khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu nhà trường sẽ kết hợp cùng doanh nghiệp để xác định rõ những kiến thức và kỹ năng sinh viên cần có đối với mỗi chuyên ngành, qua đó tổng hợp lại và xây dựng thành giáo trình giảng dạy trong nhà trường. Tuy nhiên bộ giáo trình này chỉ được xây dựng hoàn chỉnh khi đã tổng hợp được những yêu cầu mà các doanh nghiệp trong lĩnh vực đó cho là cần thiết cho đào tạo. Tránh trường hợp xây dựng giáo trình cá thể cho từng doanh nghiệp cụ thể như vậy bộ giáo trình sẽ chỉ áp dụng đơn thuần cho doanh nghiệp đó mà không áp dụng được trên diện rộng. Việc làm này sẽ gây lãng phí thời gian và tiền của của doanh nghiệp và nhà trường.
4. Phân loại nhu cầu đào tạo
Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu của nhà nước: là những đòi hỏi về nguồn nhân lực từ những chiến lược phát triển của bộ máy nhà nước hay của những ngành nghề mới mà Nhà nước định hướng phát triển trong