Đầu tư xóa đói giảm nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, do đó tìm nguyên nhân và giải pháp để xoá đói, giảm nghèo là nhiệm vụ cấp bách có tính chiến lược lâu dài của mỗi quốc gia trên toàn thế giới.
Đầu tư xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đó là một trong những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và người nghèo nói riêng, tạo cơ hội hoà nhập vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng kêu gọi đồng bào cả nước phát huy tinh thần thân ái “ lá lành đùm lá rách” “ tương thân tương ái’ để cứu giúp người nghèo đói. Phong trào hũ gạo cứu dân và tuần lễ vàng kiến quốc đã được Người phát động và nêu gương bằng cử chỉ cao quý mỗi tuần nhịn một bữa ăn để dành gạo cứu đói. Bằng cách đó, Người đã huy động được sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc vào cuộc vận động này. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại lời căn dặn về trách nhiệm và tinh thần của Đảng và Nhà nước đối với cuộc sống của nhân dân “ hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân rét là Đãng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân không được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi”.Tư tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo. Qua đó góp phần tạo động lực thực hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh" mà bước đầu là thực hiện có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước những năm đầu thế kỉ XXI.
Những năm qua Hà Tĩnh đã có bước phát triển kinh tế khá nhanh và tương đối ổn định, hơn nữa đã gắn việc phát triển kinh tế với đầu tư xoá đói, giảm nghèo . Vì thế đã góp phần ổn định và nâng cao đời sống dân cư, giảm chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên sự chênh lệch giàu nghèo, phân hoá các tầng lớp dân cư diễn ra có ranh giới rõ rệt. Đó chính là vấn đề xã hội đặc biệt quan tâm.
Trong thời kỳ đổi mới xoá đói, giảm nghèo đã và đang trở thành cuộc vận động lớn có tác dụng thiết thực góp phần giảm hộ đói, nghèo, tạo điều kiện giúp họ vươn lên hoà nhập với cuộc sống cộng đồng. Hoà chung với phong trào xoá đói giảm nghèo của cả nước, với đặc điểm là một tỉnh nghèo, được sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, các tổ chức Quốc tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh sớm phát động và thực hiện phong trào xoá đói giảm nghèo tập trung phát triển kinh tế -xã hội, đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững an ninh, quốc phòng góp phần thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo .
Đầu tư xoá đói, giảm nghèo đến nay đã trở thành phong trào, chương trình hành động được phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu đều khắp trên 11 huyện, thị xã, 261 xã, phường, thị trấn và các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể quần chúng. Đó là những mặt thuận lợi cơ bản để qua đó lượng hoá những chủ trương mục tiêu mà Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XV, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cấp từng ngành, từng tổ chức, đoàn thể trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng chính là cơ sở để chúng ta từng bước tiếp cận chuẩn mực đói nghèo quốc tế góp phần vào quá trình hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá, tạo điều kiện cho người nghèo tự vươn lên, nâng cao thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội để từng bước nâng cao tính bền vững của xoá đói, giảm nghèo
52 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4029 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư xóa đói giảm nghèo ở những xã đặc biệt khó khăn tại tỉnh Hà Tỉnh - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đầu tư xóa đói giảm nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, do đó tìm nguyên nhân và giải pháp để xoá đói, giảm nghèo là nhiệm vụ cấp bách có tính chiến lược lâu dài của mỗi quốc gia trên toàn thế giới.
Đầu tư xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đó là một trong những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và người nghèo nói riêng, tạo cơ hội hoà nhập vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng kêu gọi đồng bào cả nước phát huy tinh thần thân ái “ lá lành đùm lá rách” “ tương thân tương ái’ để cứu giúp người nghèo đói. Phong trào hũ gạo cứu dân và tuần lễ vàng kiến quốc đã được Người phát động và nêu gương bằng cử chỉ cao quý mỗi tuần nhịn một bữa ăn để dành gạo cứu đói. Bằng cách đó, Người đã huy động được sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc vào cuộc vận động này. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại lời căn dặn về trách nhiệm và tinh thần của Đảng và Nhà nước đối với cuộc sống của nhân dân “ hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân rét là Đãng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân không được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi”.Tư tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo. Qua đó góp phần tạo động lực thực hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh" mà bước đầu là thực hiện có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước những năm đầu thế kỉ XXI.
Những năm qua Hà Tĩnh đã có bước phát triển kinh tế khá nhanh và tương đối ổn định, hơn nữa đã gắn việc phát triển kinh tế với đầu tư xoá đói, giảm nghèo . Vì thế đã góp phần ổn định và nâng cao đời sống dân cư, giảm chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên sự chênh lệch giàu nghèo, phân hoá các tầng lớp dân cư diễn ra có ranh giới rõ rệt. Đó chính là vấn đề xã hội đặc biệt quan tâm.
Trong thời kỳ đổi mới xoá đói, giảm nghèo đã và đang trở thành cuộc vận động lớn có tác dụng thiết thực góp phần giảm hộ đói, nghèo, tạo điều kiện giúp họ vươn lên hoà nhập với cuộc sống cộng đồng. Hoà chung với phong trào xoá đói giảm nghèo của cả nước, với đặc điểm là một tỉnh nghèo, được sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, các tổ chức Quốc tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh sớm phát động và thực hiện phong trào xoá đói giảm nghèo tập trung phát triển kinh tế -xã hội, đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững an ninh, quốc phòng góp phần thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo .
Đầu tư xoá đói, giảm nghèo đến nay đã trở thành phong trào, chương trình hành động được phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu đều khắp trên 11 huyện, thị xã, 261 xã, phường, thị trấn và các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể quần chúng. Đó là những mặt thuận lợi cơ bản để qua đó lượng hoá những chủ trương mục tiêu mà Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XV, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cấp từng ngành, từng tổ chức, đoàn thể trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng chính là cơ sở để chúng ta từng bước tiếp cận chuẩn mực đói nghèo quốc tế góp phần vào quá trình hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá, tạo điều kiện cho người nghèo tự vươn lên, nâng cao thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội để từng bước nâng cao tính bền vững của xoá đói, giảm nghèo .
Tuy vậy, vẫn còn một phận dân cư ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng bãi ngang đang chịu cảnh đói nghèo và thiếu việc làm, không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của cuộc sống. Đây là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất quan tâm thể hiện qua các chính sách, chương trình, dự án hướng vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đặc biệt khó nhưng những kết quả đạt được còn rất nhiều hạn chế, tốc độ giảm còn chậm, hơn nữa những kết quả này chưa vững chắc, tình trạng tái nghèo vẫn còn xuất hiện, thêm vào đó khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng đặc biệt khó khăn và các vùng khác trong toàn tỉnh có xu hướng ngày một nới rộng ra. Đối với các vùng này đói nghèo đối với họ trở thành một vấn đề nan giải, nó như một căn bệnh cố hữu trong cuộc sống của họ, hơn nữa do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, phương thức canh tác lạc hậu, trình độ nhận thức thấp, nên việc xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đặc biệt khó khăn là việc vô cùng khó khăn phức tạp không chỉ là một sớm một chiều mà phải là một công việc thường xuyên lâu dài, nó đòi hỏi phải có những chương trình, dự án, những chính sách đồng bộ về phương tiện, kỹ thuật, về vốn, về cây con và phương thức sản xuất để họ có thể tự thoát đói nghèo.
Chính vì vậy, bằng kiến thức và sự hiểu biết của mình và được sự giúp đỡ hướng dẫn của thày cô Khoa Đầu tư và các cô chú Phòng kế hoạch phát triển sản xuất, em mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Đầu tư xóa đói giảm nghèo ở những xã cđặ biệt khó khăn tại tỉnh Hà Tỉnh. Thực trạng và giải pháp”
Nội dung của đề tài bao gồm 2 phần:
Phần I: Thực trạng đầu tư xóa đói giảm nghèo ở các xã gặp khó khăn ở Hà Tĩnh
Phần II: Giải pháp đầu tư xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, do tầm hiểu biết, kiến thức còn hạn chế, thông tin không đầy đủ nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết, em rất mong được sự góp ý của thầy và các cô chú Phòng kế hoạch phát triển sản xuất để em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thày cô Khoa Đầu tư cùng với các cán bộ tại sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh mà đặc biệt là Phòng kế hoạch phát triển ngành đã quan tâm và tạo điều kiện thuận trong thời gian em thực hiện chuyên đề thực tập.
Chương I. Thực trạng đầu tư xóa đói giảm nghèo ở các xã gặp khó khăn ở Hà Tĩnh
1.1. Tổng quan về tình hình kinh tế xã hội Tỉnh Hà Tĩnh.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên.
a. Vị trí địa lý
Phần lớn các xã đặc biệt khó khăn nằm sát vùng biên giới Việt - Lào và trên trục đường Hồ Chí Minh.
Có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng, kinh tế-xã hội của tỉnh cũng như của cả nước, có nhiều tiềm năng như rừng, đất, khoáng sản, là địa bàn phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi và phát triển du lịch sinh thái.
b. Địa hình và khí hậu
Địa hình các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa Khí hậu đặc trưng của vùng miền Bắc Trung Bộ là mưa nhiều, nắng lắm, bão lũ xuyên xảy ra.
Đất đai
Diện tích đất tự nhiên của 25 xã là 250.058,43 ha, chiếm 41,29% diện tích đất cả tỉnh. Trong đó, đất nông nghiệp có 7.554 ha, chiếm 7,75% đất nông nghiệp toàn tỉnh. Đất lâm nghiệp có 159.327 ha, chiếm 65,75% đất lâm nghiệp toàn tỉnh. Còn lại là diện tích đất chưa sử dụng: 76.605,35ha, chiếm 37,75% đất chưa sử dụng cả tỉnh.
Rừng và đất rừng
- Rừng tự nhiên: 149.467,07 ha chiếm 77% rừng toàn tỉnh
- Rừng trồng: 10. 158, 22 ha, chiếm 2% rừng trồng toàn tỉnh
- Rừng ươm: 2,25ha chiếm 1% rừng ươm toàn tỉnh.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế, kỹ- thuật của các xã đặc biệt khó khăn.
Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các xã đặc biệt khó khăn năm 2000 là 3,31% thì đến năm 2007 là 7,02%
Cơ cấu kinh tế
Chủ yếu sản xuất nông lâm là chính, mức tăng trưởng kinh tế của các xã này hầu như chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Còn công nghiệp dịch vụ chưa phát triển, sản xuất chủ yếu là tự cân đối
Mức thu nhập
Năm 2000 thu nhập bình quân là 1,123 triệu đồng/ người/năm, đến năm 2007 là 2,8 triệu đồng/người/năm, tăng 96% so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 19,2
Thực trạng phát triển các ngành, các lĩnh vực
Về nông nghiệp
- Trồng trọt
- Chăn nuôi
- Về thuỷ sản
Sản xuất lâm nghiệp
Tỷ lệ che phủ ngày càng được nâng cao, rừng được bảo vệ và khai thác ngày càng tốt hơn.
Đánh giá chung về nông nghiệp
- Sản xuất nông- lâm nghiệp là nghề chính của các xã đặc biệt khó khăn nhưng giá trị sản phẩm còn thấp.
- Diện tích trồng lúa ít
- Chăn nuôi là thế mạnh của vùng( nhất là trâu, bò) đã góp phần làm tăng thu nhập và nhiều nơi đã trở thành hàng hoá..
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp trong vùng chưa có gì, tiểu thủ công nghiệp tuy có nhưng phát triển chậm, chưa có mô hình tập trung
Thương mại, dịch vụ
- Thương mại dịch vụ chưa phát triển, sản xuất chủ yếu tự cân đối
- Chính vì vậy mà hàng hoá ở các vùng này vừa thiếu, vừa không bình ổn giá, lại bị các thương lái chèn ép giá.
1.2.2. Về xã hội.
- Dân số của các xã đặc biệt khó khăn là 105.079 người, chiếm 8% dân số toàn tỉnh. gia đình, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề sinh đẻ.
- Cơ sở hạ tầng thiếu thốn, điều kiện học hành, chăm sóc sức khoẻ bị hạn chế
- Lao động chủ yếu là nông nghiệp.
1.2.3. Về kinh tế.
Trong những năm qua kinh tế Hà Tĩnh đạt được mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng hàng năm trên 8%, riêng năm 2005 đạt trên 9%. Tình hình kinh tế đã có tác động trực tiếp đến kinh tế của các xã đặc biệt khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các xã này năm 2000 là 3,31% thì đến năm 2005 là 7,02% còn thấp so với toàn tỉnh, đồng thời, tỷ lệ dân số tăng khá nhanh nên bình quân GDP đầu người thấp, thu nhập bình quân đầu người năm 2000 là 1,123 triệu đồng( của tỉnh là 2,682 triệu đồng) và đến 2005 là 2,8 triệu đồng( của tỉnh là 3,9 triệu đồng).
Biểu 1.1: Tăng trưởng GDP các ngành
Tỉnh
Nhịp độ tăng GDP các ngành (%)
1996-2000
2001-2005
1996-2005
Hà Tĩnh:
7,06
8,63
7,69
- Nông nghiệp
4,51
4,25
4,70
-Công nghiệp - Xây dựng
9,80
18,60
14,74
- Dịch vụ
10,12
10,50
9,32
Toàn vùng Bắc Trung Bộ:
9,49
10,38
9,82
- Nông nghiệp
6,16
6,07*
6,13**
- Công nghiệp - Xây dựng
13,73
14,48*
14,01**
- Dịch vụ
9,02
9,88 *
9,34 **
Cả nước
6,95
7,25
7,1
- Nông, lâm, ngư nghiệp
4,42
3,57
4,0
- Công nghiệp – xây dựng
10,6
10,14
10,4
- Dịch vụ
5,69
6,64
6,1
Nguồn: Niên giám thống kê hàng năm và Kế hoạch 2006-2010.
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng nhưng còn chậm
Đạt kết quả về tăng trưởng kinh tế nêu trên chủ yếu do dịch chuyển cơ cấu kinh tế đúng hướng, dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng việc làm ở cả ba khu vực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp, và chuyển dịch khá nhanh so vùng Bắc Trung Bộ và cả nước.
Biểu 1.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tỉnh
Cơ cấu GDP (%)
1995
2000
2005
Hà Tĩnh:
100
100
100
- Nông, lâm, ngư nghiệp
60,5
51,3
43,13
- Công nghiệp - Xây dựng
10,9
13,5
22,45
- Dịch vụ
28,6
35,2
34,42
Toàn vùng Bắc Trung Bộ:
100
100
100
- Nông nghiệp
37,0
36,8
33,1
- Công nghiệp -Xây dựng
17,9
22,4
26,5
- Dịch vụ
45,1
40,7
40,4
Cả nước
100
100
100
- Nông, lâm, ngư nghiệp
27,2
24,5
20,9
- Công nghiệp – xây dựng
28,8
36,7
41,0
- Dịch vụ
44,1
38,7
38,1
’
b. Mức thu nhập
Mức sống của người nghèo về cơ bản được cải thiện. Điều này thể hiện qua sự gia tăng mức thu nhập của người nghèo, năm 2000 thu nhập bình quân là 1,123 triệu đồng/ người/năm, đến năm 2005 là 2,8 triệu đồng/người/năm, tăng 96% so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 19,2%. Mặt khác, mức sống thể hiện qua việc tiếp cận các dịch vụ công như giáo dục, hệ thống y tế, điện…
1.2. Thực trạng đầu tư xóa đói giảm nghèo của Tỉnh Hà Tĩnh.
1.2.1. Các chương trình đầu tư xóa đói giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là vấn đề kinh tế-xã hội, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, của mọi người dân và của chính người nghèo. Đây là vấn đề chiến lược, một chương trình lớn của quốc gia, phục vụ rất hữu ích cho việc thực hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh”. Nó thể hiện sâu sắc quan điểm tất cả vì con người của chủ tịch Hồ Chí Minh “... ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống vui tươi hạnh phúc” .
Từ đại hội VII(1991) Đảng ta đã đề ra chủ trương xoá đói giảm nghèo. Nghị quyết đại hội VII nêu rõ “ cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá già nghèo vượt quá giới hạn cho phép”. Đến nghị quyết TW5, khoá VII, Đảng ta đã cụ thể thêm một bước chủ trương này: “ phải trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở giúp dân. Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo”. Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã xác định “ xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển- xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài” Với những quan điểm và chủ trương trên, trong những năm qua, Chính phủ đã cụ thể hoá bằng những chính sách, cơ chế và chương trình dự án và kế hoạch hàng năm nhằm tập trung phát triển nông nghiệp-nông thôn; xây dựng các công trình thuỷ lợi để phục vụ sản xuất và đời sống; hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi đảm bảo an ninh lương thực.
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu xoá đói giảm nghèo Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách lớn để phục vụ để hỗ trợ phát triển kinh tế, trợ giúp người nghèo, xã nghèo, vùng nghèo như:
+ Chương trình phát triển kinh tế đối với các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa( QĐ số 135/1998/QĐ -TTg, ngày 31/7/1998). Mục tiêu là đầu tư cho hai lĩnh vực chủ yếu:
Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư phát triển sản xuất
Trong đó bao gồm: đầu tư cho công tác quy hoạch, quy hoạch đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệ, quy hoạch bố trí lại dân cư, quy hoạch bố trí lại công trình hạ tầng. Đầu tư hạ tầng: đầu tư giao thông thuỷ lợi nhỏ, cấp nước sạch cho dân cư nói chung, phát triển điện lưới hoặc xây dựng thuỷ lợi nhỏ. Xây dựng các trường học, trạm xá; xây dựng trung tâm cụm xã ở những nơi có điều kiện thích hợp, ổn định và phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, dự án đào tạo cán bộ xã phường, phum, sóc.
+ Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo (QĐsố 133/1998/TTg, ngày 23/7/1998) với 9 nội dung như: Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo, hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, định canh, định cư, di dân kinh tế mới, hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, hỗ trợ tín dung, y tế, giáo dục cho người nghèo.
+ Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, trên cơ sở nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm (QĐ 126/1998/QĐ- TTg, ngày 14/7/1998). Chương trình nhằm mục tiêu: tham gia giải quyết việc làm cho những hộ nghèo không có việc làm, đào tạo miễn phí cho con em các hộ nghèo tại các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc khu vực Nhà nước quản lý...
+ Chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi núi trọc (quyết định của chủ tịch hội đồng bộ trưởng ngày 15/9/1992 ), sau này được phát triển lên và được thay thế bằng dự án trồng 5 triệu ha rừng. Mục tiêu và nguồn lực của chương trình này hầu hết dành ho người nghèo được hưởng, thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần vào việc ổn định dân cư cho đồng bào các dân miền núi, vùng sâu, vùng xa.
+ Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình này nhằm cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nói chung, trong đó có người nghèo và xây dựng các công trình nước sạch ở các xã nghèo.
+ Chương trình bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ trẻ em. Chương trình này có mục tiêu tác động trực tiếp đến xoá đói giảm nghèo: chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em...
+ Chương trình giáo dục- đào tạo: nhằm xoá mũ chữ và phổ cập tiểu học; hỗ trợ giáo dục miền núi và dân tộc như cung cấp sách giáo khoa và các thiết bị học tập cho học sinh; nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường phổ thông.
+ Chương trình hỗ trợ các dân tộc đặc biệt khó khăn.
+ Chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn, thuỷ lợi giao. thông.
Đặc biệt, ngày 21/5/2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo” nhằm cụ thể hoá việc thực hiện các mục tiêu, cơ chế, chủ trương, chính sách, giải pháp chung của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của đất nước.
Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước nhằm giúp đỡ các cộng động người nghèo, vùng nghèo, xã nghèo, đưa kinh tế ở các xã này, vùng nhanh chóng phát triển kịp với các xã khác, vùng khác nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch quá mức về trình độ phát triển kinh tế và phân phối tổng thu nhập giữa các hộ, các xã, các vùng trong cả nước.
1.2.2. Vốn đầu tư và tình hình sử dụng vốn đầu tư cho xóa đói giảm nghèo tại Tỉnh Hà Tĩnh.
Vốn đầu tư được phân theo các chương trình mục tiêu như sau:
1.2.2.1. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo:
Bảng: 1.3: Vốn đầu tư vào chương trình xóa đói giảm nghèo.
TT
Tên chương trình mục tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện năm 2007
Thực hiện năm 2008
Kế hoạch năm 2009
Tổng số
Tr. đó: Vốn ĐTPT
Kế hoạch
Thực hiện
Tổng số
Vốn đầu tư phát triển
Tổng số
Vốn ĐTPT
Tổng số
Vốn ĐTPT
Chương trình Về giảm nghèo
Triệu đồng
19,950
18,900
21,817
18,900
26,306
22,500
23,350
18,900
1
Dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư
,,
1,000
800
1,500
1,500
2
Dự án Nâng cao năng lực giảm nghèo
,,
50
411
600
650
3
Dự án Hỗ trợ dạy nghề cho người nghèo
,,
1,500
1,500
2,000
4
Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các xã bãi ngang ven biển
,,
18,900
18,900
18,900
18,900
22,500
22,500
18,900
18,900
5
Dự án Trợ giúp pháp lý cho ngời nghèo
,,
140
140
200
6
Dự án Giám sát, đánh giá chơng trình
,,
66
66
100
7
Chỉ tiêu nhiệm vụ:
Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo trong năm
%
4
4.5
5
4.5
Tỷ lệ hộ nghèo trong năm
,,
31,86
27,0
26,86
22,36
Nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia Tỉnh Hà Tĩnh
Kết quả thực hiện năm 2008:
Xây dựng cơ sở hạ tầng các xã bãi ngang làm được 25,5 km đường giao thông nông thôn, 5,5 km kênh mương nội đồng, xây mới 24 phòng học, 4 chợ nông thôn, 1 trạm xá xã, cải tạo một số diện tích nuôi trồng thuỷ sản. Giá trị thực hiện 6 tháng đầu năm 3.856 triệu đồng và giải ngân 3.437 triệu đồng (đạt 18% kế hoạch vốn), chậm hơn cùng kỳ năm 2007 do ảnh hưởng của biến động tăng giá vật tư, vật liệu, xăng dầu và lạm phát đầu năm 2008. Tuy vậy, các dự án đều có quy mô nhỏ, nên dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2008.
Trong 6 tháng đầu năm đã tổ chức tập huấn cho 4.400 cán bộ làm công tác giảm nghèo, dạy nghề cho 300 lao động thuộc hộ nghèo, hỗ trợ công cụ sản xuất cho 1.000 hộ nghèo để thực hiện 5 mô hình trồng cam, 1 mô hình trồng quýt, 3 mô hình trồng chè công nghiệp gắn với chế biến, 1 mô hình sản xuất nấm. Riêng số kinh phí trợ giúp pháp lý cho người nghèo đã chuyển về các xã để làm công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách pháp luật đến đối tượng người nghèo sẽ giải ngân trong quý III/2008.
Có 20.000 lượt hộ nghèo được vay 135.100 triệu đồng từ quỹ XĐGN, 1.135 hộ nghèo được hỗ trợ nhà ở, 414.549 người nghèo được cấp thẻ BHYT và 120.500 học sinh con em hộ nghèo được miễn học phí trong 6 tháng đầu năm 2008. Ước năm 2008 sẽ có 37.000 lượt hộ nghèo được vay 250.000 triệu đồng từ quỹ XĐGN, 2.000 hộ nghèo được hỗ trợ nhà ở, 416.000 người nghèo được cấp thẻ BHYT, 135.360 học sinh hộ nghèo được miễn học phí.
Cùng với các dự án chương trình 135, dự án ODA, dự án tín dụng người