Thừa kế và di sản thừa kế là vấn đề mang tính kinh tế, mang tính xã hội truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Có thể nói, di sản thừa kế là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân sự về thừa kế. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế chính là xác định đúng khối tài sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo đúng kỷ phần mà người thừa kế có quyền được hưởng, việc xác định đúng di sản thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa kế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc xác định di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế còn nhiều nan giải cả về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và xây dụng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng Vì vậy, vấn đề di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9788 | Lượt tải: 10
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Di sản thừa kế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thừa kế và di sản thừa kế là vấn đề mang tính kinh tế, mang tính xã hội truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Có thể nói, di sản thừa kế là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân sự về thừa kế. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế chính là xác định đúng khối tài sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo đúng kỷ phần mà người thừa kế có quyền được hưởng, việc xác định đúng di sản thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa kế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc xác định di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế còn nhiều nan giải cả về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và xây dụng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng Vì vậy, vấn đề di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết.
Trước những tình hình đó, em quyết định lựa chọn đề tài “Di sản thừa kế- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, qua đó, mong muốn có thể làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề di sản thừa kế ở nước ta hiện nay, để từ đó đem lại nhận thức đúng đắn về di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế.
I. Một số vấn đề lý luận về di sản thừa kế
1. Quan niệm về di sản và di sản thừa kế.
1.1 Quan niệm về di sản.
Trên phương diện triết học, trong thế giới không ở đâu có tận cùng cả bề rộng lẫn bề sâu, cũng như không ở đâu lại ngừng trệ, không biến đổi và không có sự tiếp nối, kế thừa của các quá trình, của các sự vật và hiện tượng, tỏng đó có kế thừa tự nhiên và kế thừa chủ động. Sự kế thừa, tiếp nối là biểu hiện của “cái” có trước và “cái” có sau; cái để lại từ thời trước, của xã hội trước, của người trước…cho thời sau; cho đời sau và cho người sau đang tồn tại. Để chỉ những gì mà thời trước hay người trước để lại, người ta thường dùng hai từ “di sản”.
Thuật ngữ “di sản” là một từ ghép Hán Việt dược tách ra làm hai từ để hiểu.
Trước hết “di” trong Từ điển tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:
- “Di” biểu hiện sự chuyển động ra khỏi vị trí nhất định thông qua sự tác động nào đó lên một vật để lại dấu vết nhất định.
- “Di” còn được hiểu là dời đi nơi khác, thoát khỏi vị trí ban đầu, biểu hiện của sự chuyển động từ nơi này đến nơi khác, từ điểm này đến điểm khác trong không gian và thời gian (không gian là điều kiện căn bản của sự tồn tại của vật chất, còn thời gian là điều kiện căn bản của sự biến đổi trạng thái của vật chất).
- “Di” với nghĩa khác là sự truyền lại, lưu lịa, để lại cho đời sau, thế hệ sau, người “đi” sau, như: “di bản”, “di cảo”. “Di” với nghĩa để lại lời dạy, lời căn dặn của một người trước khi chết, như “di huấn”, “di chúc”.
Với các nghĩa trên đây, “di” có thể hiểu một cách chung nhất là sự dịch chuyển sự vật, hiện tượng làm thay đổi vị trí của chúng trong không gian và thời gian. Sự thay đổi vị trí của chúng bao giờ cũng thể hiện yếu tố “trước” và “sau”. Nó có thể diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc trong một thời gian dài.
Từ “sản” trong tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:
- Sinh ra, làm ra, tạo ra sản phẩm để sinh sống;
- Cái do con người tạo ra là kết quả tự nhiên của quá trình lao động, sản xuất;
- Là từ dùng để chỉ gia tài, sản nghiệp mang tính tổng thể của những tài sản trong một khối.
Với các nghĩa trên đây, “sản” được hiểu một cách chung nhất là tài sản hoặc khối tài sản nằm trong sự chiếm hữu và sử dụng để mang lại lợi ích cho con người.
Từ “di” được ghép với từ “sản” thành “di sản” nhằm để chỉ của cải, gia tài, sản nghiệp, cái mà thời trước để lại cho đời sau. Trong Từ điển tiếng Việt thì “di sản” được hiểu với nghĩa là:
- Tài sản của người chết để lại
- Cái của thời trước để lại: ví dụ như di tích lịch sử, di vật lịch sử…v..
Hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông thường thì “di sản” là tài sản của người chết để lại hoặc những cái mà thời trước để lại cho đời sau, bao gồm:
- Các giá trị vật chất là các tài sản đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
- Các giá trị tinh thần thuộc về đời sống nội tâm, những tư duy, ý tưởng, ý nghĩ định hướng cho hoạt động của con người.
Thuật ngữ “di sản” được dùng trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Chúng được dụng phổ biến nhất là trong lĩnh vực văn hóa, kinh tế, khảo cổ học..và đặc biệt là pháp luật.
1.2 Di sản thừa kế.
Di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp, khi nói về di sản thừa kế, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này chính là do còn nhiều vấn đề tranh cãi liên quan đến di sản thừa kế.
Một trong những vấn đề còn có nhiều ý kiến tranh cãi đó là di sản thừa kế có bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại hay không.
Về vấn đề này, hiện nay, trong khoa học pháp lý, vấn đề di sản thừa kế vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thì cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại; có quan điểm lại cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại; và có quan điểm lại cho rằng di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản…
Tán thành quan điểm thứ ba, theo tôi, di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản.
Tồn tại một thực tế hiển nhiên là khi còn sống, một người cần đến tài sản của mình để sản xuất và sinh sống. Tài sản đó có được dựa trên nhiều căn cứ hợp pháp, họ hoàn toàn có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên cạnh đó có thể còn có các nghĩa vụ tài sản đối vơi các chủ thể khác. Các nghĩa vụ này phát sinh từ những giao dịch dân sự, từ hành vi gây thiệt hại hoặc từ các quan hệ pháp luật khác, chưa kịp thực hiện thì khi người này chết, toàn bộ tài sản cũng như các nghĩa vụ tài sản sẽ được để lại là tất yếu. Thậm chí xét rộng ra người chết còn để lại cả những kinh nghiệm, tiếng tăm, danh dự.. có nghĩa là để lại các giá trị nhân thân, những ý nghĩa định hướng cho hoạt động của con người.. Tất cả các yếu tố này của người chết để lại gọi là “cái” của thời trước, của người trước để lại, được xác định là “di sản” chứ không chỉ là “di sản thừa kế”.
Ủng hộ quan điểm này, theo tôi, nghĩa vụ tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế, bởi lẽ:
Về mặt ngữ nghĩa: thì thừa kế là thừa hưởng gia tài của người đi trước một cách kế tục. Theo nghĩa này, từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa : “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho” mà trong Pháp luật danh từ giải nghĩa thừa hưởng được hiểu là “được ăn, được dùng, được tiêu thụ, được hưởng lợi, được giữ, được dùng làm của mình”. Với nghĩa này thì không thể tư duy theo hướng người thừa kế sẽ “được hưởng nghĩa vụ tài sản” hay “hưởng tài sản nợ của ông bà, cha mẹ để lại, nếu di sản chỉ có nghĩa vụ tài sản”
Về phương diện pháp lý: nếu quan niệm di sản thừa kế mà người chết để lại không chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm cả các nghĩa vụ tài sản của người đó để lại, thì vấn đề thanh toán và phân chia di sản thừa kế được hiểu như thế nào
Theo quy định tại Điều 637 BLDS 2005, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản thuộc về những người được hưởng di sản thừa kế: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại..” Quy định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới “bước vào quan hệ nghĩa vụ”, có nghĩa là họ không thay thế vị trí chủ thể, họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết để lại, nợ của người chết không phải là nợ của người hưởng di sản. Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn thì khi đó không còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản thừa kế.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005 thì người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc trả nợ thay cho người để lại di sản; nếu từ chối nhận di sản cũng có nghĩa từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết. Điều này chứng tỏ, người thức kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ, nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện việc trả nợ.
Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự là món nợ của người đó lúc còn sống phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế, phải coi nghĩa vụ đó là của chình bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để thanh toán. Nếu sau khi thanh toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác liên quan đến di sản mà vẫn còn di sản để chia cho người có quyền hưởng di sản, thì phần di sản còn lại này mới được gọi là di sản thừa kế.
Như vậy, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết mà chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập trên những căn cứ hợp pháp mà người chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Hiểu một cách tổng quan nhất thì di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại cho những người có quyền hưởng thừa kế, mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của người đó.
Khi bàn đến vấn đề di sản thừa kế thì còn có một vấn đề cần xem xét đó là thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế.
Quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản được diễn ra ở hai thời điểm khác nhau. Nếu quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản diễn ra cùng một thời điểm (mở thừa kế) chỉ đúng trong một phạm vi rất hẹp, đó là di sản “đang nằm trong tay”, “đang nằm trong sự chiếm hữu một cách hợp pháp của người hưởng di sản” và loại tài sản này không bị phân chia và không phải đang ký quyền sở hữu.
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người hưởng thừa kế có quyền hưởng di sản, tuy nhiên, thời điểm này những người thừa kế chưa có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Mặc dù về nguyên tắc, người có quyền hưởng di sản có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở thừa kế, nhưng việc chia thừa kế thực tế không thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết vì những lí do như: phải có thời gian để tổ chức tang lễ cho người chết, để bàn bạc các vấn đề liên quan, giải quyết các tranh chấp..v.. Bên cạnh đó, có những di sản thừa kế thuộc phạm vi đăng kí quyền sở hữu thì chỉ khi hoàn tất thủ tục pháp lý mới xác lập quyền sở hữu đối với di sản cho người hưởng di sản.
Tóm lại, tại thời điểm mở thừa kế, người thừa kế cũng như người được di tặng (nếu có) có quyền thừa kế (có quyền nhận tài sản). Từ thời điểm mở thừa kế, những người này chưa có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế, di sản thừa kế chưa thuộc về họ, di sản thừa kế sẽ thuộc quyền sở hữu của họ kể từ khi nhận được hoặc từ khi hoàn thành thủ tục đang ký quyền sở hữu đối với di sản thừa kế (nếu pháp luật quy định)
Về di sản thừa kế, một vấn đề quan trọng có liên quan đến việc xác định di sản thừa kế là những tài sản phát sinh sau khi người có tài sản chết, có thuộc di sản thừa kế hay không?
Về nguyên tắc, di sản thừa kế được xác định tại thời điểm mở thừa kế. Vì theo nguyên lý chung, một người phải còn sống mới xác lập thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật, trong đó có quan hệ pháp luật về sở hữu. Tuy nhiên, quan hệ thừa kế là quan hệ có tính đặc thù của nó, chỉ phát sinh khi có cái chết của một con người. Ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc làm chấm dứt sự tồn tại của người đó. Các nhà làm luật đá lấy khoảnh khắc đó làm mốc thời gian để xác định sự phát sinh thừa kế và các quan hệ thừa kế và xác định di sản.
Có quan điểm cho rằng, tất cả các tài sản, kể cả hoa lợi, lợi tức từ di sản mà phát sinh sau thời điểm mở thừa kế thuộc quyền sở hữu của người hưởng thừa kế. Cách hiểu này cũng có tính hợp lý của nó vì “di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại” di sản thừa kế phải là tài sản được xác lập quyên sở hữu cho người chết trước khi mở thừa kế. Khi người này chết thì chấm dứt mọi khả năng thực hiện quyền của họ.
Tuy nhiên, vấn đề này cần được hiểu là, mặc dù những tài sản này phát sinh sau khi người có tài sản chết, nhưng tài sản này có được từ các quan hệ pháp luật mà khi còn sống họ tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền, hoặc là những tài sản này gắn liền, phát sinh từ những tài sản của người chết. Khi người hưởng thừa kế đã nhận di sản và xác lập quyền sở hữu thì từ thời điểm đó, mọi sinh lợi từ di sản thừa kế mới thuộc quyền sở hữu của họ. Vì thế không thể xác định đó là di sản mà người chết để lại. Lúc này các khoản lợi là hệ quả trực tiếp của quyền sở hữu chứ không phải là hệ quả của quyền thừa kế.
Trong thực tế, có khá nhiều trường hợp, di sản thừa kế được xác định sau khi người có tài sản chết:
- Tiền trúng sổ xố là thu nhập hợp pháp của người mua vé số. Có thể người này mua vé số trước khi mở thưởng là 5 ngày nhưng lại chết trước khi mở thưởng 1 ngày. Nếu trúng thưởng thì khoản tiền này là khoản thu nhập hợp pháp, nếu người đã chết đã có vợ (chồng) thì một nửa thuộc quyền sở hữu của người còn sống, nửa kia là di sản thừa kế của người chết
- Các khoản tiền bảo hiểm tình mạng cho hành khách, người thừa kế của hành khách bị chết đó sẽ được hưởng khoản tiền mà cơ quan bảo hiêm phải chi trả..
Những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế được xác định là di sản thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chính xác khối di sản mà người chết để lại, đảm bảo đúng phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật, đồng thời xác định được ai là người thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu di sản gây thiệt hại…
Di sản thừa kế là yếu tố vật chất của thừa kế, khoa học luật Dân sự thừa nhận về mặt nội dung của thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản thừa kế từ người chết sang cho những người còn sống. Sự biểu hiện của nó là việc để lại và nhận di sản thừa kế mà đối tượng là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết.
Pháp luật dân sự Việt Nam từ trước đến nay chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm về di sản thừa kế mà chỉ hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp quy định về thành phần của di sản thừa kế. Từ lập luận của các khía cạnh trên đây, theo tôi, khái niệm di sản thừa kế có thể được xây dựng trên các phương diện sau đây:
- Xét trên phương diện đạo đức: Di sản thừa kế là của cải vật chất (tài sản), là phương tiện thực hiện bổn phận của người chết, nhằm gây dựng và chăm lo cho tương lai đối với những người hưởng thừa kế
- Xét trên phương diện kinh tế: Di sản thừa kế là của cải vật chất (di sản) của người chết để lại cho những người khác còn sống để dùng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng.
- Xét trên phương diện khoa học luật dân sự: Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ dịch chuyển tài sản của người đó sang cho những người hưởng thừa kế, được Nhà nước thừa nhận vào bảo đảm thực hiện.
2. Mối quan hệ giữa quyền sở hữu tài sản và di sản thừa kế.
Di sản thừa kế là một bộ phận của chế độ tài sản, vì thế, nó chịu sự chi phối bởi những quy định của pháp luật về tài sản và quyến sở hữu trong BLDS, đồng thời chịu ảnh hưởng rất nhiều của các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Di sản là yếu tố căn bản trong quan hệ nhận và để lại di sản, được biểu hiện thông qua sự dịch chuyển di sản của người chết để lại sang cho những người hưởng di sản. Sự biểu hiện này chứng tỏ rằng, thừa kế là kết quả tất yếu của những quyền năng trong quyền sở hữu, là mối liên hệ phụ thuộc giữa thừa kế và sở hữu, có sở hữu mới có thừa kế.
Di sản thừa kế có mối quan hệ hữu cơ với quyền sở hữu tài sản của cá nhân hay nói cách khác, quyền sở hữu cá nhân là cơ sở chủ yếu để xác định di sản thừa kế cá nhân sau khi qua đời. Quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội khác nhau cũng có những thay đổi và được quy định khác nhau, theo đó di sản thừa kế cũng có những thay đổi theo những quy định khác nhau về phạm vi và thành phần tài sản mà cá nhân có quyền sở hữu qua mỗi thời kì.
Những cơ sở pháp lý về quyền sơ hữu tài sản của công dân được quy định tại Điều 58 Hiến pháp. Nhà nước luôn khuyến khích công dân làm giàu chính đáng. Những điều kiện khách quan mà pháp luật quy định cho phép công dân phát huy mọi khả năng, mọi nỗ lực để lao động, sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực, trong các thành phần kinh tế…để có thu nhập hợp pháp. Tài sản của công dân trong giai đoạn hiện nay bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tái sản hợp pháp khác mà công dân sở hữu với tư cách cá thế, tiểu chủ hay tư bản tư nhân…là di sản của cá nhân sau khi chết.
Trong thời kì thự hiện đường lối đổi mới toàn diện ở nước ta, Nhà nước luôn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách kinh tế đổi mới này đã đáp ứng ngày càng tốt hơn như cầu vật chất tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân trong giai đoạn hiện nay càng được mở rộng về phạm vi, thành phần và giá trị; theo đó mà di sản thừa kế của cá nhân nhiều hay ít về giá trị, thành phần, số lượng và tính chất… phụ thuộc vào khả năng chủ quan của người đó tạo ra và phụ thuộc vào những quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu cá nhân.
Theo quy định của pháp luật, những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân gồm: thu nhập hợp pháp, nhà ở, máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản gửi tổ chức tín dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, các trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, các giấy tờ có giá, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợi, quyền nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lí khác, quyền đối với phần vốn góp trong các doanh nghiệp… Những loại tài sản này mà một người khi còn sống có quyền sơ hữu và khi người đó chết thì những tài sản này là di sản thừa kế, được đem chia thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại lớn hơn hoặc ngang bằng với giá trị di sản của người này để lại thì khi đó sẽ không còn di sản để chia thừa kế.
3. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 634 BLDS thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết phần tài sản của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”.
Di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp, về vấn đề này có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí ngay trong pháp luật qua mỗi thời kì cũng quy định khác nhau. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội của nước ta sau hơn sáu mươi năm qua, với những chính sách phát đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần… đến nay thành phần, khối lượng, giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu tư nhân- nguồn của di sản thừa kế cũng ngày một phong phú, nhiều hơn và lớn hơn.
Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn sống. Theo quy định tại điêu 164 BLDS: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng, giá trị.
3.1 Di sản thừa kế là tải sản riêng của người chết.
Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó còn sống, có quyền sở hữu tài sản của mình một cách độc lập và tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí riêng của mình mà khô