Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ vẫn có quyền như những công dân khác tự do khác trừ một số quyền tạm thời bị pháp luật TTHS hạn chế hoặc tước bỏ. Khi một công dân trở thành đối tượng bị Nhà nước nghi là thực hiện tội phạm mà buộc phải tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự với các cơ quan Nhà nước, đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đó có thể bị Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chịu biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt, có thể bị tước bỏ nhiều quyền cơ bản của công dân như quyền tự do về thân thể và thậm chí bị tước bỏ cả quyền sống. Vì vậy, pháp luật quy định những người này có quyền biện minh cho bản thân mình nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của nhà nước, quyền đó là quyền bào chữa. Quyền bào chữa có thể coi như là quyền đối trọng với quyền buộc tội của Nhà nước. Tuy nhiên, khi tham gia vào tố tụng hình sự, chủ thể của quyền bào chữa thường có trạng thái tâm lí căng thẳng, tự mình không nhận thức được tình tiết có lợi để bào chữa cho mình. Phần đông người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có kinh nghiệm khi va chạm tiếp xúc với các cơ quan tiến hình tố tụng, người tiến hành tố tụng và hơn nữa pháp luật ngày càng phát triển, càng phức tạp nên không phải ai cũng có thể hiểu biết hết các quy định của pháp luật để mà tự mình bào chữa, điều này dẫn đến một nhu cầu khách quan trong xã hội là phải có người hiểu biết sâu, có chuyên môn về pháp luật đê giúp bị can, bị cáo bào chữa cho mình - đó chính là người bào chữa. Khi người bào chữa đã tham gia vào tố tụng hình sự thì pháp luật phải quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ; những quy định này sẽ tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ vẫn có quyền như những công dân khác tự do khác trừ một số quyền tạm thời bị pháp luật TTHS hạn chế hoặc tước bỏ. Khi một công dân trở thành đối tượng bị Nhà nước nghi là thực hiện tội phạm mà buộc phải tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự với các cơ quan Nhà nước, đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đó có thể bị Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chịu biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt, có thể bị tước bỏ nhiều quyền cơ bản của công dân như quyền tự do về thân thể và thậm chí bị tước bỏ cả quyền sống. Vì vậy, pháp luật quy định những người này có quyền biện minh cho bản thân mình nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của nhà nước, quyền đó là quyền bào chữa. Quyền bào chữa có thể coi như là quyền đối trọng với quyền buộc tội của Nhà nước. Tuy nhiên, khi tham gia vào tố tụng hình sự, chủ thể của quyền bào chữa thường có trạng thái tâm lí căng thẳng, tự mình không nhận thức được tình tiết có lợi để bào chữa cho mình. Phần đông người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có kinh nghiệm khi va chạm tiếp xúc với các cơ quan tiến hình tố tụng, người tiến hành tố tụng và hơn nữa pháp luật ngày càng phát triển, càng phức tạp nên không phải ai cũng có thể hiểu biết hết các quy định của pháp luật để mà tự mình bào chữa, điều này dẫn đến một nhu cầu khách quan trong xã hội là phải có người hiểu biết sâu, có chuyên môn về pháp luật đê giúp bị can, bị cáo bào chữa cho mình - đó chính là người bào chữa. Khi người bào chữa đã tham gia vào tố tụng hình sự thì pháp luật phải quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ; những quy định này sẽ tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
B. NỘI DUNG.
I. Khái niệm người bào chữa:
Hệ thống quy định của BLTTHS năm 2003 tập trung quy định về chủ thể, quyền và nhiệm vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong tố tụng hình sự. Theo đó, Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư: là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia TTHS theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và Luật Luật sư năm 2006, một người muốn trở thành luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự phải đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư năm 2006, và được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người đại diện hợp pháp yêu cầu hoặc được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luật sư có thể tham gia tố tụng hình sự với tư cách người bào chữa trong trường hợp sau:
Thứ nhất, theo hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Thứ hai, theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (Khoản 2 Điều 57 BLTTHS).
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
BLTTHS năm 2003 không quy định rõ ràng khái niệm “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Dựa trên quy định của BLDS năm 2005 về người đại diện theo pháp luật, theo quan điểm này, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Người dám hộ có thể: người giám hộ đương nhiên (điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005); người giám hộ được cử(Điều 63 Bộ luật dân sự năm 2005).
- Bào chữa viên nhân dân.
Theo khoản 2, 3 điều 57 của BLTTHS năm 2003, có thể hiểu bào chữa viên nhân dân là người được Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận đề cử bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong 2 trường hợp sau:
+ Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ( khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 ).
+ Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng hình sự (khoản 3 Điều 57 BLTTHS năm 2003)
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường ĐH Luật Hà Nội. Chúng ta có thể hiều khái niệm người bào chữa như sau: Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bào vệ quyền và lợi ích của họ.
II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người bào chữa:
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định chủ yếu tại Điều 58 BLTTHS năm 2003, và một số điều khoản khác của bộ Luật này.
1. Những quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền của người bào chữa:
Người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người bào chữa được thưc hiện chức năng của mình BLTTHS quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81, 82 của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bị mật điều tra đối với tội xâm phạm na ninh quốc gia, thì viện trưởng viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó, người bào chữa có thể tham gia tố tụng vào 1 trong 3 thời điểm sau:
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 81 BLTTHS năm 2003), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 82 BLTTHS năm 2003).
- Người bào chữa tham gia tố tụng khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia theo quyết định của viện trưởng viện kiếm sát.
BLTTHS năm 2003 dành 2 khoản tại điều 58 để quy định về quyền của người bào chữa trong TTHS.
a. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giam, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giam, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoat động điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung có ý nghĩa trợ giúp ban đầu đối với những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời khai, khi hỏi cung giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được ổn định về mặt tâm lý hơn khi trả lời các câu hỏi của Điều tra viên. Với sự am hiểu pháp luật của mình, người bào chữa có thể giúp người bị tạm giữ, bị can, bí cáo nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời khai, giúp người bị tạm giữ, bị can khai lại, giải thích đúng với sự thật của vụ án. Sự tham gia của người bào chữa ngay trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung đảm bảo cho hoạt động này được tiến hành đầy đủ, tuân thủ pháp luật hơn. Tham gia vào các hoạt động điều tra, giúp cho người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, đồng thời nắm rõ các tình tiết,chứng cứ để từ đó đưa ra lời bào chữa thích hợp và hiệu quả cho người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn tiếp theo.
Người bào chữa còn có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu được sự đồng ý của Điều tra viên, để làm sang tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can.
Khi tham gia các hoạt động điều tra, người bào chữa được quyền xem xét các biên bản về các hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, các quyết định có liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung có sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động điều tra khác góp phần nâng cao chất lượng điều tra, xét xử đảm bảo công bằng và dân chủ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
b. Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
BLTTHS năm 2003 đã khắc phục thiếu sót của BLTTHS năm 1988 khi quy định thêm quyền được đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can khi hỏi cung bị can. Đây là điểm mới tiến bộ và hợp lý của BLTTHS năm 2003.
c. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS năm 2003.
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
Đối với người tiến hành tố tụng, nhũng căn cứ này được quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003.
Đối với người giám định, họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 60 BLTTHS năm 2003.
Thay đổi người phiên dịch quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2003.
d. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Với quy định này, người bào chữa được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết lien quan đến việc bào chữa một cách hợp pháp. Sau đó, người bào chữa sử dụng những gì thu thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo hiệu quả hơn. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xem xét những đồ vật, tài liệu này nếu nó đảm bảo tính khách quan và hợp lý thì có thể sử dụng như là chứng cứ để giải quyết vụ án.
e. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Điều 122 BLTTHS năm 2003 “khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến dự án thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Nếu khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại chương XXXV của bộ luật này”
f. Quyền gặp người tạm giữ bị can, bị cáo đang bị giam.
Trao cho người bào chữa có quyền này là rất cần thiết. Người bào chữa muốn thực hiện chức năng của mình, cần phải tiếp xúc trực tiếp với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không chỉ tìm hiểu vụ án qua những chứng cứ, tài liệu được cơ quan điều tra cung cấp
g. Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Giúp cho người bào chữa nắm được nội dung của vụ án biết chính xác người được bào chữa bị buộc tội gì và dựa trên những luận cứ buộc tội nào. Từ đó, người bào chữa có sự chuẩn bị chính xác, đúng để tìm ra những luận điểm gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người được bào chữa. Người bào chữa được chủ động việc bào chữa và tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Ngoài ra đọc hồ sơ tài liệu của vụ án còn giúp người bào chữa có điều kiện phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi pham pháp luật trong quá trình điều tra, trên cơ sở đó, người bào chữa kết hợp thực hiện các quyền khác như quyền yêu cầu, quyền khiếu nại với các cơ quan có thẩm quyền.
h. Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa, viện kiểm sát, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra những chứng cứ luận điểm có liên quan đến vụ án và tranh luận; hội đồng xét xử có trách nhiệm xem xét các chứng cứ, xét hỏi và điều khiển việc tranh luận giữa các bên. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có những câu trả lời theo những hướng có lợi cho bị cáo. Không chỉ trao quyền cho người bào chữa, pháp luật còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng để họ thực hiện quyền này trong thực tế. BLTTHS năm 2003 có những quy định về quyền bình đẳng của người bào chữa, về trình tự xét hỏi và xét hỏi tại phiên tòa...Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định về vị trí bình đẳng của người bào chữa tại phiên tòa: “Kiểm sát viên, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, dồ vật, đưa ra tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.
i. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Pháp luật TTHS quy định cho người bào chữa có quyền này nhằm đảm bảo các quy định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng luôn được đặt trong sự giám sát kiểm tra. Từ đó, hoạt động tố tụng sẽ luôn mang tính khách quan và toàn diện, tránh những oan sai, vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.
k. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật này.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa trong TTHS, không phụ thuộc vào ý chí của người được bào chữa cũng như đại diện hợp pháp của họ.
Người bào chữa chỉ được kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo hướng có lợi cho bị cáo. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo.
BLTTHS năm 2003 đã quy định khá đầy đủ về các quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
2. Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ của người bào chữa.
Nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003.
a. Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sat, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người bào chữa không có trách nhiệm với việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa qua loa, không đem lại sự trợ giúp đáng kể nào cho người được bào chữa. Người bào chữa phải ý thức được nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, chuyên tâm, tích cực tìm hiểu vụ án, phát hiện kịp thời những tình tiết có thể giúp người bị tạm giam, bị can, bị cáo chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Có như vậy, việc tham gia tố tụng của người bào chữa mới thực sự có ý nghĩa.
b. Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Đây là nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, họ có nhiệm vụ phải trợ giúp được bào chữa mọi mặt về các vấn đề pháp luật.
c. Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
Quy định này thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ.
Khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định những người không được bào chữa: “Những người sau đây không được bào chữa: a. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
b. Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch”.
d. Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
e. Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Đây vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của người bào chữa. Pháp luật quy định nghĩa vụ này của người bào chữa nhằm ràng buộc họ có trách nhiệm hơn với công việc bào chữa cho thân chủ của mình.
f. Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Phù hợp với những nguyên tắc cần có của người bào chữa. Quy định này nhằm bào vệ bí mật quốc gia và những lợi ích chung của xã hội.
Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự đã được pháp luật quy định một cách khá toàn diện và hợp lý việc thực hiện tốt các nghĩa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa tỏ rõ vai trò, nâng cao địa vị pháp luật của mình trong tố tụng hình sự.
III. Vai trò của người bào chữa:
Qua tình hình thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự thì nguwoif bào chữa tham gia tố tụng hình sự đã góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; loại bỏ được phần nào sự chuyên quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, hiệu quả công việc bào chữa ngày càng cao từ đó mà lấy được lòng tin, sự tôn trọng từ người dân nói chung và từ các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng; giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thấy được những thiếu sót cần bổ sung trong công tác điều tra, truy tố hoặc xét xử thông qua các kiến nghị hợp lý của người bào chữa khi phát hiện ra các sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bào chữa qua công việc bào chữa của mình, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người dân hiểu được bản chất của sự việc, hành vi phạm tội, cũng như động cơ, mục đích, nguyên nhân xảy ra tội phạm qua đó giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng ra được một bản án công minh, chính xác; chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tội phạm; giúp cho các nhà hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật bổ sung được sau này.
IV. Một số đề xuất hoàn thiện các quy định này:
Kể từ khi ban hành đến nay, BLTTHS năm 2003 đã bộc lộ nhiều điểm còn hạn chế. Trong đó có những quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Một số đề xuất như sau:
- Cần làm rõ và sáng tỏ hơn khái niệm người bào chữa, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân.
- Cần giải thích và hướng dẫn thống nhất các quy định hiện hành của BLTTHS năm 2003 để hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lí của người bào chữa cũng như thay đổi cách nhìn nhận của người dân về hoạt động bào chữa và sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Hiện nay, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã có những quy định hết sức tiến bộ, đề cao vị trí, vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa nhưng việc áp dụng và triển khai thực hiện trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế cần phải khắc phúc để người bào chữa thực sự phát huy hiệu quả của mình trong hoạt động bào chữa. Cần có những quy định cụ thể về cơ chế trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền và trách nhiệm của họ.
- Bộ luật Tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hỏi là chính v