Đề tài Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự

Trong một phiên tòa hình sự, người bào chữa có vai trò hêt sức quan trọng trong việc định tội cuối cùng cho một bị can, bị cáo. Có thể nói, cơ hội cuối cùng của những bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào người bào chữa. Họ là người nghe những tâm sự cuối cùng của bị can, bị cáo, trước khi họ chịu án phạt. Vị trí của họ là quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế, địa vị pháp lý của họ được quy định như thế nào, liệu đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội không? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài “địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự”.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2682 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Trong một phiên tòa hình sự, người bào chữa có vai trò hêt sức quan trọng trong việc định tội cuối cùng cho một bị can, bị cáo. Có thể nói, cơ hội cuối cùng của những bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào người bào chữa. Họ là người nghe những tâm sự cuối cùng của bị can, bị cáo, trước khi họ chịu án phạt. Vị trí của họ là quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế, địa vị pháp lý của họ được quy định như thế nào, liệu đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội không? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài “địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự”. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I.Khái quát chung về chế định người bào chữa: 1.Tại sao phải đặt ra chế định người bào chữa? Điều 11, BLTTHS quy định về nguyên tắc đảm bảo quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, như sau: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này” Thực tế thì, khi thực hiện tội phạm, đôi khi người hạm tội không thể nhận thức hết được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình gây ra, cũng như không đủ hiểu biết pháp luật để tìm những chứng cứ, những lý lẽ gỡ tội cho mình. Trình độ hiểu và nhận thức pháp luật của người dân nước ta còn thiều, vì vậy, trên phiên tòa, bị can, bị cao thường bị động, không tìm ra hướng bào chữa cho mình. Chính vì vậy, Nhà nước cho phép họ được gỡ tội cho mình thông qua những người có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, được gọi là người bào chữa. 2.Khái niệm người bào chữa: Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác nhau về người bào chữa. Có một số quan điểm cho rằng:: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật” Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào chữa là “thầy cãi”… Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của người bào chữa cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật ra, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Ngay trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã có sự phân biệt giữa người bào chữa vời người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để phân biệt chính là chức năng của họ và đối tượng mà họ bào chữa, bảo vệ. Người bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội. Từ những phân tích trên, có thể nói về khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. 3.Phân loại người bào chữa: Điều 56, BLTTHS quy định về người bào chữa, bao gồm: “a) Luật sư; b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; c) Bào chữa viên nhân dân”. Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên ngành hiệp hoạt động trong đoàn luật sư. Người đại diện của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bào vệ quyền và lợi ích của bị can bị cáo. Đây là trường hợp người đại diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Nếu bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi và không có nhược điểm gì về thể chất, tâm thần khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách bị can, bị cáo thì không có người đại diện hợp pháp. Như vậy, chế định người đại diện cho bị can, bị cáo chỉ được áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về mặt tâm thần. Ví dụ: một hành vi phạm tội của bị can, bị cáo được thực hiện ở độ tuổi từ 14 đến dười 18 tuổi khi bại khởi tố bị can, cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chưa cho họ nếu như bị can hoặc gia đình bị can không mời người bào chữa, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu gia đình cử người đại diện hợp pháp tham gia trong suốt các giai đoạn tố tụng. Nếu thiếu người đại diện hợp pháp khi tham gia tố tụng hoặc có người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mà không có chữ ký của họ trong biên bản hỏi cung của bị can thì biên bản đó không có giá trị. Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo Pháp luật của cơ quan điều tra trong hoạt động tố tụng của họ. Tại khoản 3, Điều132, BLTTHS quy định: “Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký vào biên bản hỏi cung”. Bào chữa viên nhân dân: hiện nay được coi là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị can, bị cáo. Hoạt động của bào chữa viên nhân dân không mang tính chuyên nghiệp mà mang tính nghiệp dư. Thực tế pháp luật quy định ba đối tượng trên đều là người bào chữa, nhưng trên thực tế, thông thường, luật sư là người xuất hiện nhiều nhất. Bởi xét cho cùng, trong ba đối tượng trên, luật sư là người có trình độ va hiểu biết pháp luật tốt hơn cả. Họ là người không liên quan đến bị can, bị cáo cũng như tòa án, vì vậy, họ có thể làm tốt công việc của mình, vừa có thể giúp bị can, bị cáo gỡ tội, vừa đảm bảo đúng pháp luật. 4.Địa vị pháp lý của người bào chữa: Nói đến người bào chữa trong tố tụng hình sự không thể không nói đến địa vị pháp lý của họ. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định những tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật. Lại có quan điểm cho rằng người bào chữa trong tố tụng hình sự vừa là người đại diện cho bị can, vừa là người tham gia tố tụng độc lập. Cơ sở của nhận định này xuất phát từ việc họ cho rằng người bào chữa không chỉ là người đại diện cho tố tụng của bị can mà còn là người tham gia tố tụng độc lập, có thể đưa ra các quan điểm trong một số trường hợp mà không phụ thuộc vào ý chí của bị can. Quan điểm khác lại cho rằng người bào chữa tham gia vào tố tụng hình sự với vị thế độc lập. Theo tôi, quan điểm này thuyết phục hơn cả. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bằng những phương pháp, cách thức hợp pháp là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự. Người bào chữa thể hiện vị trí tố tụng độc lập của mình cũng có nghĩa là người bào chữa không có quyền tuân theo những yêu cầu không hợp pháp, không có căn cứ của bị can, bị cáo. Vị trí độc lập của người bào chữa trong tố tụng hình sự được xác định rõ bằng những quy phạm tố tụng hình sự trong đó chứa đựng những quyền và nghĩa vụ mà người bào chữa có như một chủ thể của tố tụng hình sự độc lập. Tại khỏa 3, điều 36, BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sảng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, hay những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ; giúp bị can bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Muốn thực hiện được các công việc trên, phải xác định được thời điểm bắt đầu cũng như thời điểm chấm dứt việc tham gia tố tụng của người bào chữa. Xác định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là việc giải quyết theo tinh thần của cá quy phạm pháp luật tố tụng hình sự. trên thực tế, để xác định thời điểm đó cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng hoạt động điều tra trước khi mở phiêm tòa là điều tra sơ bộ, là căn cứ để tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Điều tra tại phiên tòa là điều tra công khai nhất, khách quan nhất. Vì thế bản án chủ yếu chỉ dựa trên những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. ..cho nên việc quy định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa là từ giai đoạn khởi tố bị can là không thực sư cần thiết. Người bào chữa chỉ cần tham gia tố tụng từ khi có quyết định truy tố trước tòa án. Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, định truy tố trước tòa án. Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, thì thời điểm bắt đầu việc tham gia tố tụng hinh sự của người bào chữa được tính kể từ thời điểm khởi tố bị can. Thời điểm khi nào được xem là chấm dứt sự tham gia tố tụng của người bào chữa cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng khi người bào chữa dự xong phiên tòa xét xử sơ thẩm thì họ chấm dứt việc bào chữa. Còn khi họ tham gia tố tụng cũng trong vụ án đó nhưng ở các giai đoạn tiếp theo được coi là thủ tục tham gia hoàn toàn mới. Ý kiến khác lại cho rằng khi người bào chữa tham gia tố tụng một vụ án từ gia đoạn điều tra thì họ vẫn có trách nhiệm tham gia vụ án đó ở những cấp xét xử tiếp, như phúc thâm, giám đốc thẩm. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào tòa án nhân dân từng cấp. Trong các quy định cụ thể ở luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định thời điểm bắt đầu tham gia tố tụng của người bào chữa chứ không có trường hợp nào quy định thời điểm chấm dứt sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án. Vì thế có thể hiểu người bào chữa có trách nhiệm tham gia tố tụng một vụ án cho đến lúc bản án của vụ án đó có hiệu lực pháp luật, không còn kháng cáo, kháng nghị hay xét sử theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm….Khi Tòa án ở cấp phúc thâm, giám đốc thẩm chuẩn bị xét xử thì đương nhiên tòa án phải triệu tập người bào chữa đã tham gia tố tụng tai phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm trước đó. II.Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa: 1.Quyền của người bào chữa: Khoản 2, Điều 58, BLTTHS quy định về quyền của người bào chữa gồm có: a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can: Đây là một quyền mới của người bào chữa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác điều tra. Nếu cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm tới an ninh quốc gia thì Việ trưởng viện kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ jhi kết thúc điều tra. Người bào chữa có quyền có mặt khi trực tiếp hỏi cung bị can để trực tiếp nghe bị can khai báo. Trong quá trình hỏi cung bị can, nếu người bào chữa phát hiện những tình tiết cần thiết đối với việc minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can thì có thể đề nghị điểu tra viên lưu ý tình tiết đó. Khi hỏi cung bị can, nếu điều tra viên đồng ý, người bào chữa có thể hỏi bị can. Quy định này giúp cho điều tra viên tiếp nhận một số tình tiết nào đó cần thiết làm sang tỏ để đánh giá khách quan đối với các tình tiết vụ án. Người bào chữa cũng có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, khám chỗ ở. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch khi thấy sự tham gia của những người này không khách quan và có ảnh hưởng tới việc xử lý vụ án. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra những chứng cứ và những yêu cầu. Khi bào chữa cho các bị can, bị cáo, người bào chữa có thể phát hiện những chứng cứ mới mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sat hoặc tòa án chưa đề cập đến. trong trường hợp đưa ra các tình tiết mới này có lợi cho bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành xem xét. Người bào chữa cũng có thể đưa ra yêu cầu triệu tập người làm chứng nếu những người làm chứng đó có lợi cho bị can, bị cáo. Người bào chữa có quyền gặp bị can, bị cáo trong giai đoạn bị can, bị cáo bị tạm giam. Khi gặp người bào chữa, bị can, bị cáo nhận thức đúng đắn việc bảo vệ bị can bị cáo là bảo vệ lợi ích của chính mình. Trên cơ sở pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, giải thích những vấn đề pháp luật mà họ chưa hiểu cũng như chưa biết cách trình bày trước cơ quan tiến hành tố tụng nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Người bào chữa phân tích cho bị can, bị cáo thấy cần khai báo thật thà để người bào chữa có căn cứ rõ rang, vững chắc cho họ. Người bào chữa được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những vấn đề cần thiết sau khi kết thúc điều tra. Quyền này giúp cho người bào chữa nắm vững nội dung và các tình tiết vụ án. Qua hồ sơ, nếu thấy vấn đề còn thiếu sót thì người bào chữa có quyền kiến nghị yêu cầu kiểm tra bổ sung. Người bào chữa có quyền khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tó tụng, nếu quyết định của cơ quan này không có căn cứ. Cơ quan tiến hành tó tụng có trách nhiệm xem xét khiếu nại của người bào chữa, nếu khiếu nại có căn cứ thì quyết định phải được sủa đổi. Người bào chữa có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa được quyền hỏi bị cáo, người làm chứng. Khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, người bào chữa chú ý xem cáo trạng đọc tại phiên tòa có giống với cáo trạng mà bị cáo nhận được không. Qua đó, người bào chữa đề nghị hội đồng xét xử lưu ý những lời khai có lợi cho bị cáo mà hồ sơ chưa phản ánh hoặc phản ánh chưa đầy đủ. Khi tranh luận, đặc biệt là khi luận tội, người bào chữa lắng nghe, xem xét ý kiến liên quan tới việc phạm tội của bị cáo và trên cơ sở đó phát biểu ý kiến bào chữa cho bị cáo. Người bào chữa có quyền tham gia kháng cáo bản án và quyết định của tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất tinh thần . 2. Nghĩa vụ của người bào chữa: Khoản 3, điều 56, BTTTHS quy định: Người bào chữa có nghĩa vụ: “a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này; b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”. 3. Các trường hợp buộc phải có người bào chữa: Điều 190, BLTTHS quy định về sự có mặt của người bào chữa trong môt phiên tòa: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2, điều 57 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”. Như vậy là, không phải lúc nào, người bào chữa cũng buộc phải có mặt tại phiên tòa. Họ hoàn toàn có thể vắng mặt sau khi gửi bản bào chữa cho Tòa án. Tuy nhiên, có những trường hợp buộc phải có mặt người bào chữa thì phiên tòa mới có thể tiếp tục. Đó là nhừng trường hợp quy định tại điều 57, BLTTHS, bao gồm: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự; b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trong những trường hợp trên, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay dổi hoặc từ chối người bào chữa. Trong thực tế, việc thực hiện các quy dịnh trên vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Đó chỉ là những suy nghĩ một chiều, thiển cận vì khi quyết định sỗ phận, tính mạng của một con người bao giờ cũng là việc khó nhất, do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc cận trọng. Sự tham gia của người bào chữa là giúp cho cơ qua tiến hành tố tụng, nhất là tòa án nhìn nhận về phương diện buộc tội và gỡ tội sao cho bản án được đưa ra chính xác, khách quan. - Bị can, bị cáo là người chưa thành niên: Đây là là lứa tuổi đư