Trước đây, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm 2004 không quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án (BPBĐTHA). Năm 2008, Luật thi hành án dân sự (LTHADS) được ban hành và đã giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định vể các BPBĐTHA, điều này cho thấy rõ tính cần thiết và quan trọng của các biện pháp này đối với công tác thi hành án. Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có điều kiện thi hành án không. Tuy nhiên, khi đương sự có điều kiện thi hành án (có tài sản) thì chưa hẳn điều kiện đó sẽ được thi hành, nếu pháp luật không có các biện pháp bảo đảm. Vì họ có thể sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản mà họ đang có trước khi chấp hành viên tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Do đó, việc quy định BPBĐTHA là hết sức cần thiết. Nhận thức được vai trò của BPBĐTHA trong công tác thi hành án dân sự, với mong muốn tìm hiểu thêm về biện pháp này, em đã quyết định chọn đề tài số 15: “ Điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”.
Dù đã cố gắng, nhưng chắc hẳn bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2343 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trước đây, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm 2004 không quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án (BPBĐTHA). Năm 2008, Luật thi hành án dân sự (LTHADS) được ban hành và đã giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định vể các BPBĐTHA, điều này cho thấy rõ tính cần thiết và quan trọng của các biện pháp này đối với công tác thi hành án. Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có điều kiện thi hành án không. Tuy nhiên, khi đương sự có điều kiện thi hành án (có tài sản) thì chưa hẳn điều kiện đó sẽ được thi hành, nếu pháp luật không có các biện pháp bảo đảm. Vì họ có thể sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản mà họ đang có trước khi chấp hành viên tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Do đó, việc quy định BPBĐTHA là hết sức cần thiết. Nhận thức được vai trò của BPBĐTHA trong công tác thi hành án dân sự, với mong muốn tìm hiểu thêm về biện pháp này, em đã quyết định chọn đề tài số 15: “ Điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”.
Dù đã cố gắng, nhưng chắc hẳn bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung
I. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Chúng ta có thể hiểu BPBĐTHA là là biện pháp pháp lí đặt tài sản của người phải THA trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ THA và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ THA của mình do chấp hành viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS.
2. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Việc áp dụng BPBĐTHA có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, ngăn chặn người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA nên bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định, quyền, lợi ích hợp pháp của người được THA và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, đốc thúc người phải THA tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình. Bởi vì, khi đã áp dụng BPBĐTHA thì tài sản của người phải THA đã bị đặt trong tình trạng bị hạn chế hoặc bị cấm sử dụng, định đoạt, do vậy, họ không thể tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc THA và giải pháp có lợi hơn cả đối với họ là tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình được xác định trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành.
Thứ ba, việc áp dụng BPBĐTHA dân sự là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS sau này, bảo đảm hiệu quả của việc THADS. Sau khi bị áp dụng các BPBĐTHA dân sự nếu người phải THA không tự nguyện thi hành thì cơ quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS nhằm buộc người phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ của họ. Các tài sản của người phải THA đã bị đặt trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hoặc bị cấm định đoạt trước đây sẽ được xử lý để THA.
II. Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Các BPBĐTHA được quy định từ Điều 66 đến điều 69 Mục 1 Chương IV LTHADS. Đây là những quy định hoàn toàn mới so với những quy định trong pháp Luật thi hành án dân sự từ trước tới nay. Để kịp thời khắc phục những bất cập và tạo hành lang pháp lý cho chấp hành viên cơ quan THA thực thi nhiệm vụ. Luật THA đã bổ sung những quy định về BPBĐTHA thành một mục (Mục I chương IV), gồm những biện pháp sau: Phong tỏa tài khoản; Tạm giữ tài sản, giấy tờ và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản của người phải thi hành án (quy định tại Điều 66).
Đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên để chấp hành viên tiến hành những hoạt động THA nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA của người phải THA, đảm bảo các bản án, quyết định được thi hành một cách triệt để và hiệu quả. Để thực hiện các BPBĐTHA, LTHADS quy định chấp hành viên có quyền chủ động áp dụng các BPBĐTHA khi xét thấy cần thiết phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA hoặc trong trường hợp có văn bản yêu cầu áp dụng các BPBĐTHA của đương sự (có thể yêu cầu của người được THA, cũng có thể là yêu càu của người phải THA). Đồng thời, LTHADS còn quy định rõ, thủ tục, trình tự đối với từng BPBĐTHA, cụ thể như sau:
1. Biện pháp phong tỏa tài khoản
Biện pháp phong tỏa tài khoản thì trước đây được quy định là một biện pháp cưỡng chế (theo khoản 3 Điều 37 PLTHADS năm 2004). Tuy nhiên, theo tôi quy định như vậy là chưa hợp lý. Thứ nhất, nó không phản ánh đúng với bản chất của việc phong tỏa tài khoản. Vì đây thực chất mới chỉ là biện pháp bảo đảm, chưa phải là biện pháp xử lý tài sản để THA. Thứ hai, về mặt pháp lý nó có sự mâu thuẫn, vì cùng một đối tượng là khoản tiền trong tài khoản lại có thể bị áp dụng hai biện pháp cưỡng chế. Đó là biện pháp phong tỏa tài khoản và biện pháp khấu trừ tài khoản được quy định tại khoản 1 Điều 37 PLTHADS. Vì vậy, LTHADS đã tách hai biện pháp này thành một biện pháp bảo đảm và một biện pháp cưỡng chế là hoàn toàn hợp lý.
Theo quy định tại Điều 67 LTHADS, chấp hành viên áp dụng biện pháp này trong trường hợp có căn cứ khẳng định người phải THA đang có tiền trong một tài khoản nhất định (thông tin về tài khoản, về số tiền trong tài khoản có thể do đương sự cung cấp hoặc do chấp hành viên xác định). Với mục đích nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải THA thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải THA ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA. Khi ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự mà chỉ cần giao chơ cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải THA để thực thi. Khi giao quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải lập biên bản và yêu cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải THA phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản trên. Hết thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA được quy định tại khoản 1 Điều 71 LTHADS.
Nếu như trước đây, theo PLTHADS năm 2004, chấp hành viên chỉ được ra quyết định cưỡng chế nói chung và cưỡng chế bằng biện pháp phong tỏa tài khoản nói riêng khi đã hết thời hạn tự nguyện mà người phải THA không tự nguyện THA hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc THA (theo quy định tại khoản 2 Điều 7 PLTHADS năm 2004). Theo đó, chấp hành viên chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 7 PLTHADS khi chứng minh được người phải THA đang có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc THA. Trên thực tế, việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải THA được thực hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng trong “tích tắc”. Nhưng để chứng minh được việc đương sự đang chuẩn bị tẩu tán hoặc có hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản thì là một việc làm rất khó. Cho nên, việc áp dụng khoản 2 Điều 7 PLTHADS năm 2004 để ra quyết định cưỡng chế “phong tỏa tài khoản” của người phải THA trong thời gian tự nguyện THA đã gặp không ít khó khăn như không được sự đồng tình ủng hộ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp, người phải THA khiếu kiện, đòi bồi thường vì cho rằng quyết định phong tỏa tài khoản của chấp hành viên đã gây ra những tổn hại lớn trong hoạt động kinh doanh của người phải THA, họ cho rằng họ không có dấu hiệu trốn tránh trách nhiệm THA vì đang trong thời gian tự nguyện thi hành…Mặt khác, Điều 34 PLTHADS năm 2004, quy định “Các quyết định, giấy báo, giấy triệu tập về thi hành án phải được thông báo cho người phải thi hành án, người được thi hành án…” không loại trừ trường hợp nào như quy định tại khoản 2 Điều 39 và khoản 1 Điều 66 LTHADS “Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án” do đó, việc tẩu tán tài sản còn có thể diễn ra ngay sau khi người phải THA nhận được thông báo quyết định cưỡng chế phong tỏa tài khoản của chấp hành viên. Do đó, đến thời điểm tổ chức cưỡng chế (yêu cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản đó thực hiện việc phong tỏa tài khoản) thì số tiền trong tài khoản của người phải THA đã không còn. Rõ ràng, biện pháp cưỡng chế “phong tỏa tài khoản” được quy định tại khoản 3 Điều 37 PLTHADS dường như không đem lại hiệu quả trong công tác THADS.
LTHADS đã loại bỏ biện pháp cưỡng chế này và chuyển sang nhóm các BPBĐTHA. Biện pháp bảo đảm này được sửa đổi theo hướng thay đổi điều kiện áp dụng và thủ tục tiến hành, cụ thể như sau: Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 LTHADS “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc yêu cầu đương sự áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án”. Chỉ cần mục đích kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền (dưới mọi hình thức) trong tài khoản của người phải THA, chấp hành viên được quyền ra ngay quyết định phong tỏa tài khoản trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA. Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải THA để thi hành. Để đảm bảo ngăn chặn kịp thời, quyết định này không phải thông báo trước cho đương sự. Việc không phải thông báo trước cho đương sự sẽ hạn chế được mọi hành vi tẩu tán tiền đang có trong tài khoản của người phải THA. Có thể nói, những quy định về biện pháp bảo đảm “phong tỏa tài khoản” của người phải THA trong LTHADS rất tiến bộ, có tính khả thi cao và phù hợp với công tác THADS. Những quy định này sẽ có khả năng ngăn chặn được mọi hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của đương sự. Đó cũng là lý do LTHADS đã chuyển biện pháp “phong tỏa tài khoản” từ một biện pháp cưỡng chế sang nhóm các BPBĐTHA.
2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ được quy định tại Điều 68 LTHADS. Biện pháp này khác biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải THA ở chỗ: Đối tượng để đảm bảo THA không phải là tiền mà là tài sản hoặc là giấy tờ có liên quan đến việc THA. Nếu như biện pháp phong tỏa tài khoản chỉ được áp dụng khi chấp hành viên đã xác định được số dư trong tài khoản của người phải THA hoặc khi đương sự yêu cầu thì biện pháp này được áp dụng ngay cả trong trường hợp chưa xác định chủ sở hữu của tài sản, giấy tờ tạm giữ. Chẳng hạn, khi đến nhà đương sự xác minh nếu thấy có tài sản là một chiếc xe máy đang ở trong nhà đương sự, chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp tạm giữ chiếc xe máy này để bảo đảm THA, nếu xét thấy cần thiết.
Cũng trong trường hợp này,nhưng, nếu theo các quy định của PLTHADS năm 2004, thì chấp hành viên không được quyền ra quyết định tạm giữ chiếc xe này mà chỉ có thể ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp kê biên, xử lý chiếc xe này theo khoản 4 Điều 37 PLTHADS năm 2004 nếu có căn cứ khẳng định chiếc xe đó thuộc quyền sở hữu của đương sự. Và để tổ chức kê biên chiếc xe này, chấp hành viên phải làm rất nhiều thủ tục như ra quyết định kê biên, quyết định kê biên phải được thông báo cho đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, đương sự…theo quy định tại Điều 34 PLTHADS năm 2004 và khi kê biên phải có đại diện chính quyền địa phương…
Về thủ tục áp dụng, biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ cũng như các biện pháp bảo đảm khác được áp dụng trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA theo quy định tại khoản 1 Điều 68 LTHADS “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng”. Khi ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ, cũng như biện pháp phong tỏa tài khoản, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự phải được lập biên bản mô tả chi tiết từng loại tài sản, giấy tờ và phải có chữ ký của chấp hành viên và đương sự. Trường hợp đương sự không ký thì phải có chứ ký của người làm chứng như đại diện tổ dân phố, người hàng xóm…Biên bản phải được lập thành hai bản, một bản lưu hồ sơ thi hành án và một bản giao cho đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, chấp hành viên phải ra một trong các quyết định sau:
- Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 171 nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải THA.
- Trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự nếu đương sự chứng minh được tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải THA. Việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải được lập thành biên bản, có chữ ký của chấp hành viên và đương sự.
Với những quy định trên, LTHADS đã khắc phục được bất cập trong PLTHADS năm 2004, đã kịp thời bổ sung một số quyền hạn cho các chấp hành viên đó là quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ để đảm bảo thi hành án mà từ trước tới nay pháp luật về THA đã bỏ ngỏ. Quy định này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về THADS và tạo hành lang pháp lý cho các chấp hành viên thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả trong công tác THADS, đặc biệt đã đáp ứng được sự mong đợi của các chấp hành viên, cán bộ cơ quan THADS.
Tuy nhiên, đây cũng là công việc, quyền hạn, nhiệm vụ thực sự mới đối với các chấp hành viên nên khi thực hiện quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải THA, các chấp hành viên cần hết sức cẩn thận, thận trọng trong mọi việc làm, như việc lập biên bản tạm giữ phải chi tiết, cụ thê, nếu cần thiết niêm phong tài sản, giấy tờ thì chấp hành viên phải tiến hành niêm phong có chữ ký xác nhận của đương sự…nếu không, rất dễ sẽ gây ra những khiếu kiện và những hậu quả khó lường mà chấp hành viên phải gánh chịu.
3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
Biên pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản trước đây là các cơ quan THADS cũng đã sử dụng dưới hình thức công văn đề nghị các cơ quan có thẩm quyền phối hợp tạm dừng viêc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản của người phải THA chứ không ra quyết định như quy định của LTHADS.
Nhưng trên thực tế, không phải cơ quan, tổ chức nào khi nhận được công văn đề nghị cũng phối hợp của cơ quan THADS cũng thực hiện theo yêu cầu, đề nghị của cơ quan THA, mà không ít các cơ quan, tổ chức đã từ chối việc đề nghị, yêu cầu của cơ quan THA, họ vẫn tiếp tục thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của đương sự. Vì, họ cho rằng công văn yêu cầu hoặc đề nghị của cơ quan THA chỉ là tác nghiệp của cơ quan THA chứ không phải là căn cứ pháp lý bắt buộc họ phải phối hợp và trong công văn cũng chỉ đưa ra nội dung “yêu cầu phối hợp” hoặc “đề nghị phối hợp” để giải quyết việc THA mà thôi. Việc không phối hợp của các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền trong công tác THADS đã tạo không ít điều kiện cho đương sự tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ THA. Theo đó, công tác THADS đã gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác THADS. Đến nay, biện pháp này đã được chính thức ghi nhận trong LTHADS.
Đây là biện pháp được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn hoặc khi phát hiện đương sự đang có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản. Để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có căn cứ tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải THA, chấp hành viên phải ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản và phải gửi ngay cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền này để thực hiện việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Và trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
III. Một số tồn tại và hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án
1. Một số tồn tại trong quy định về BPBĐTHA
LTHADS năm 2008 đã rất tiến bộ khi đưa ra những quy định về BPBĐTHA và đã cơ bản khắc phục được những điểm bất cập của PLTHADS năm 2004. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn thi hành, các quy định hiện hành về BPBĐTHA còn bộc lộ một số tồn tại nhất định:
- LTHADS chưa có quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng các BPBĐTHA. Điều này có thể dẫn đến một số tranh cãi như tranh cãi về việc ra quyết định áp dụng các BPBĐTHA trước khi người phải THA được thông báo hợp lệ quyết định THA hay sau khi nhận được quyết định THA chẳng hạn.
- Việc quy định thời hạn áp dụng BPBĐTHA với một thời hạn nhất định, không có các trường hợp ngoại lệ, trong một số trường hợp thực tế đã gây ra không ít khó khăn cho chấp hành viên khi giải quyết việc thi hành án. Để tiến hành các công việc, với thời hạn 15 ngày, trong nhiều trường hợp chấp hành viên sẽ không thể giải quyết được.
2. Hướng hoàn thiện pháp luật về BPBĐTHA
Trên cơ sở một số tồn tại trong quy định của pháp luật về BPBĐTHA, qua quá trình tham khảo, tôi xin đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về biện pháp này:
Thứ nhất, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng BPBĐTHA và có hướng dẫn cụ thể để triển khai thực hiện một cách thống nhất.
Thứ hai, pháp luật THADS cần có những quy định mở, những trường hợp ngoại lệ đối với thời hạn áp dụng BPBĐTHA để tạo một hành lang pháp lý rõ ràng hơn, nhằm tạo điều kiện cho chấp hành viên có cơ sở giải quyết việc THA đúng pháp luật, đồng thời cũng để phát huy tối đa hiệu quả của BPBĐTHA.
Kết luận
Thực tiễn cho thấy, các biện pháp bảo đảm là một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu để thực thi hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án đạt hiệu quả trên thực tế. Với ý nghĩa đó, trong quá trình tác nghiệp các Chấp hành viên đã thường xuyên áp dụng các biện pháp này để giải quyết việc THA, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho người được THA. Những điểm mới về biện pháp bảo đảm THA trong quy định của LTHADS năm 2008 đã góp phần tích cực vào việc giúp công tác THA của chấp hành viên được hiệu quả hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Luật thi hành án dân sự năm 2008
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010
Nguyễn Thị Phíp, Các biện pháp bảo đảm thi hành án, số 2/2009, Tạp chí Nghề luật.