Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
55 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11260 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước từ năm 2007 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
Lời mở đầu
Phần I : Giới thiệu chung
Chính sách tiền tệ
Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
Các công cụ chính sách tiền tệ
Phần II : Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động của nó tới nền kinh tế từ năm 2007 đến nay
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Phần III : Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Một số kiến nghị về điều hành chính sách tiền tệ cuối năm 2010
Một số đề xuất hoàn thiện hóa công cụ chính sách tiền tệ
Kết luận và tài liệu tham khảo
Phụ lục
Lời mở đầu
C
hính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ ,chúng em quyết định chọn đề tài : “Điều hành CSTT của NHNN từ năm 2007 đến nay”.
Phần I: Giới thiệu chung
1. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng trung ương thông qua các công cụ của mình làm thay đổi các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm, thỏa mãn các yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của nền kinh tế.
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
Mục tiêu cuối cùng
Ổn định giá cả
Góp phần tăng trưởng kinh tế
Góp phần tạo công ăn việc làm
Mục tiêu trung gian: là các chỉ tiêu mà NHNN lựa chọn để đạt mục tiêu cuối cùng
Mức cung tiền : Việt Nam sử dụng chỉ tiêu mức tăng tổng phương tiện thanh toán M2 ( lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống + tiền gửi không kỳ hạn + tiền gửi có kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + kỳ phiếu do các ngân hàng phát hành)
Lãi suất thị trường
Mục tiêu hoạt động: là các chỉ tiêu NHNN lựa chọn để đạt được mục tiêu trung gian
Lượng tiền trung ương ( MB): Dự trữ của các ngân hàng trung gian
Lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tín phiếu kho bạc
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ trực tiếp: là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông ( hoặc các mức lãi suất thị trường trung và dài hạn) bao gồm
Hạn mức tín dụng: được sử dụng từ nửa cuối năm 1994 đến 1998 nhằm khống chế trực tiếp mức tăng trưởng dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM. Mặc dù hạn mức tín dụng quy định cho từng NHTM không còn áp dụng với tư cách là CSTT trực tiếp từ năm 1998 nhưng tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng vẫn là chỉ tiêu bị khống chế hàng năm bởi NHNN và theo yêu cầu của IMF.
Ấn định lãi suất: NHNN sử dụng chính sách lãi suất nhằm điều tiết trực tiếp mặt bằng lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng
Các chính sách hỗ trợ: NHNN sử dụng một hệ thống các chính sách hỗ trợ mục tiêu như chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn, chính sách quản lý ngoại hối nhằm hỗ trợ cho công cụ lãi suất và tỷ giá.
Công cụ gián tiếp: là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất, bao gồm:
Dự trữ bắt buộc: là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo quy định của NHNN. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trong một khoảng thời gian nhất định
Công cụ tái cấp vốn: là cách để NHNN đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) : là nghiệp vụ mua bán các chứng từ ngắn hạn của NHNN trên thị trường tiền tệ
Ở Việt Nam hiện nay sử dụng : lãi suất, chính sách tái cấp vốn, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT.
Phần II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động của nó tới nền kinh tế từ năm 2007 đến nay
1. Năm 2007
1.1. Diễn biến kinh tế năm 2007:
- Kinh tế thế giới: Thế giới năm 2007 đã ghi dấu ấn những bước thăng trầm của thị trường hàng hoá và tài chính: giá dầu thô lên xấp xỉ 100 USD; đồng đôla sụt giảm xuống mức kỷ lục trước euro; các đại gia tài chính khốn đốn với cơn bão tín dụng xuyên quốc gia
Vàng và dầu “phi tên lửa”, USD “nhảy cầu”. Năm nay thực sự là năm làm các nhà đầu tư USD phải “khóc lắm”, còn những ai dự trữ vàng và dầu thô được “cười nhiều”. Liên tục trồi sụt và biến động từng ngày, nhưng giá vàng và dầu thô trên thị trường thế giới nhìn chung diễn tiến theo đồ thị đi lên. Trong khi đó, USD dù có những ngày phục hồi, vẫn mất mặt thảm hại trước Euro. Vàng, dầu và USD đánh dấu năm 2007 bằng những dấu mốc lớn. Ngày 7/11, giá vàng “thăng” tới 848 USD/oz, mức cao nhất kể từ năm 1980, khi mà giá vàng lên tới 873 USD/oz. Tiếp đó, vào ngày 21/11, giá dầu đạt đỉnh 99,29 USD/thùng, mức cao nhất kể từ khi hoạt động giao dịch kỳ hạn được áp dụng vào năm 1983. Rồi đến ngày 23/11, USD lao xuống vạch 1 Euro bằng 1,4967 USD, mức thấp nhất kể từ khi đồng Euro được đưa vào sử dụng năm 1999.Tính ra, trong năm qua, giá dầu đã tăng trên 50%, giá vàng tăng gần 30%, USD mất giá hơn 10% so với Euro. Nhu cầu năng lượng tăng cao tại các cường quốc đang nổi lên như Trung Quốc và tình hình chính trị diễn biến căng thẳng ở Trung Đông, “vựa” dầu của thế giới, là vài trong số những nguyên nhân chủ đạo đẩy giá dầu tăng cao. Trong bối cảnh đó, những giếng dầu và khí đốt trên vùng Trung Á đã trở thành tâm điểm tranh chấp giữa Mỹ, Tây Âu và Nga. Trong khi giá dầu cao là "tin buồn" với kinh tế Mỹ, đó lại là "tin lành" đối với kinh tế Nga, quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên năng lượng khổng lồ.Giá nhiên liệu không ngừng leo thang, gây áp lực lạm phát ở mức cao, trong khi đồng USD mất giá là những yếu tố đi đầu trong việc “đội” giá vàng lên vì vàng luôn là mặt hàng đầu tư chiến lược để đề phòng lạm phát. Giới quan sát dự báo, giá dầu trong năm tới rất có thể sẽ phổ biến ở ngưỡng 70 - 75 USD/thùng, giá vàng cũng sẽ tiếp tục trên dưới ngưỡng 800 USD/oz do USD vẫn còn mất giá so với Euro.
- Kinh tế trong nước: Việt Nam cũng đã gặp một số khó khăn như giá cả gia tăng, tình trạng lạm phát, và những than phiền của các nhà đầu tư nước ngoài về các luật lệ và thủ tục đầu tư. Tình hình lạm phát gia tăng (CPI năm 2007 tăng lên mức kỉ lục là 12,63% so với tháng 12/2006), luồng vốn ngoại tệ vào quá nhiều trong khi khả năng hấp thụ vốn ngoại của nền kinh tế còn hạn chế, đã gây ra các hiệu ứng cho nền kinh tế (VND lên giá, bùng nổ tín dụng, lạm phát gia tăng; sức ép đòi hỏi bơm nội tệ để mua ngoại tệ...); TTCK trong nước ảm đạm... Thiên nhiên dường như cũng tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam bằng một đợt rét đậm kéo dài kỷ lục...
Các diễn biến kinh tế trong và ngoài nước đang đặt ra rất nhiều thách thức cho Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách ứng phó phù hợp.
1.2. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2007 của NHNN:
NHNN thực thi CSTT bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
Lãi suất
Để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN tiếp tục giữ ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm và lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm(Mức lãi suất được duy trì từ tháng 12/2005 đến nay). Song, lãi suất một số thị trường do NHNN Việt Nam điều hành thì lại biến động mạnh. Lãi suất đấu thầu tín phiêu kho bạc nhà nước bình quân ở mức 4,16%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở bình quân lên tới 7,5% - 8,0%/năm. Các mức lãi suất đó có tác động giảm sự gia tăng lãi suất trên thị trường, nhất là lãi suât thị trường liên ngân hàng. Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ được tiếp tục giữ ổn định trong 5 tháng đầu năm 2007.
Tuy nhiên,vào những tháng cuối năm 2007 trước sức ép của lạm phát ( lạm phát liên tục ở mức cao, và nhảy vọt đến trên 12% vào cuối 2007) và lo ngại rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay bất động sản và cổ phiếu, NHNN dường như đã bớt phải chịu sức ép tăng trưởng, từ 1/6/2007, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ và ngoại tệ: từ 5% lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên 10% đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng.
Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc một cách đột ngột, mức tăng dự trữ quá nhanh và mạnh khi tăng trưởng tín dụng chưa quá nóng đã đẩy các ngân hàng thương mại của Việt Nam lâm vào khủng hoảng thiếu thanh khoản chưa từng có, kéo theo tình trạng cạn kiệt tín dụng trong ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở
Có thể khẳng định trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã đạt được thành công lớn trong can thiệp vào vốn khả dụng của NHTM và thu hút bớt tiền từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Tổng khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn NHNN mua vào kỳ hạn ngắn lên tới 61.133 tỷ đồng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn khả dụng cho các NHTM. Nhưng trong năm 2007, tổng doanh số tín phiếu NHNN và giấy tờ có giá bán ra là 356.850 tỷ đồng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.Con số đó cũng cho thấy mức độ thu hút tiền tệ của NHNN là rất lớn.
Vào thời điểm tháng 10/2007, khi lạm phát có xu hướng vượt trên hai con số, Ngân hàng nhà nước cũng đã bán ra nhiều giấy tờ có giá để thu hút tiền về.NHNN đã tổ chức tới 355 phiên giao dịch, nhiều ngày tổ chức tới 2- 3 phiên để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nhiều phiên NHNN chào bán tới 10.000 tỷ đồng.Đây cũng là những con số kỉ lục từ trước tới nay. Tổng số có 584 lượt thành viên dự thầu, trong dó 399 lượt thành viên là ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 142 lượt thành viên là ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) và 43 lượt thành viên là chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam; có 481 lượt thành viên trúng thầu, trong
đó có 360 lượt thành viên trúng thâu là NHTMNN, 86 lượt thành viên trúng thầu là NHTMCP và 35 lượt thành viên trúng thâu là chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đây cũng là diễn biến khác với nhiều năm trước và cho thấy tính tham gia rộng rãi, vai trò của thị trường mở đối với các NHTM cũng như đối với việc điều hành chính sách tiên tệ. Thời hạn giấy tờ có giá giao dịch cũng khác nhau, nhưng rất đa dạng, khoảng 10 kỳ hạn, nhưng chủ yếu là 7 ngày, 14 ngày,… lãi suất có xu hướng tăng và ở mức cao so với các năm gần đây.
Số lượng thành viên và tần suất giao dịch OMO:
Năm
Số lượng
thành viên
2006
30/9
2007
Tổng số
35
35
1.NHNNVN
1
1
2.NHTM nhà nước
5
5
3.NHTM cổ phần
19
19
4.NH nước ngoài
7
7
5.NH liên doanh
1
1
6.TCTD phi NH
1
1
7.Quỹ TDNDTW
1
1
Tần suất giao dịch
1 tuần
4 phiên
1 ngày
2 phiên
Chính sách tỷ giá
Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
6 tháng đầu năm 2007 tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng có biến động nhẹ, trong quý I có xu hướng giảm sau đó tăng nhẹ khoảng 0,07% so với đầu năm. Nguyên nhân là do nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên tỷ giá mua vào USD/VND của các ngân hàng thương mại thường xuyên ở mức kịch sàn cho phép, các ngân hàng thương mại không có nhu cầu xin mua ngoại tệ từ NHNN. Vì thế, để nhằm hỗ trợ xuất khẩu, NHNN đã thực hiện các biện pháp can thiệp để tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng không giảm xuống mức quá thấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu phát triển.
Với cơ chế điều hành tỷ giá trong năm 2007, mặc dù, tỷ giá có biến động khá nhau , tăng đáng kể thời điểm giữa năm, nhất là trên thị trường tự do, có thời điểm lên tới gần 16300đ/1 đôla, nhưng nhìn chung là ổn định và giảm nhẹ vào cuối năm, xoay quanh mức 16.000đ/1 đôla.
NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
1.3. Nhận xét về điều hành chính sách tiền tệ năm 2007
Những kết quả đạt được:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
Những thách thức phải đối mặt
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm