Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán., đây là hoạt động đem lại những hiệu quả tích cực không những cho chủ thể chào bán mà còn cho cả nền kinh tế. Có hai phương thức chào bán chứng khoán là: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ, trong đó chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ cho phép doanh nghiệp huy động vốn một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên sự thành bại của chủ thể phát hành trong quá trình kinh doanh lại có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi của các nhà đầu tư, do vậy để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật đã đề ra những điều kiện, trình tự thủ tục mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn, và tuân theo để được chào bán chứng khoán ra công chúng. Trong bài viết này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về: “Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng” để có thể thấy rõ được những điểm hợp lý và bất cập trong quy định của pháp luật từ đó đưa ra những hướng khắc phục những điểm bất hợp lý trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển hơn nữa.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3556 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ BÀI
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán., đây là hoạt động đem lại những hiệu quả tích cực không những cho chủ thể chào bán mà còn cho cả nền kinh tế. Có hai phương thức chào bán chứng khoán là: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ, trong đó chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ cho phép doanh nghiệp huy động vốn một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên sự thành bại của chủ thể phát hành trong quá trình kinh doanh lại có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi của các nhà đầu tư, do vậy để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật đã đề ra những điều kiện, trình tự thủ tục mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn, và tuân theo để được chào bán chứng khoán ra công chúng. Trong bài viết này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về: “Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng” để có thể thấy rõ được những điểm hợp lý và bất cập trong quy định của pháp luật từ đó đưa ra những hướng khắc phục những điểm bất hợp lý trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển hơn nữa.
I. Khái quát về Chào bán chứng khoán ra công chúng
Các khái niệm chung
* Khái niệm chứng khoán: Điều 6 LCK 2006 đưa ra khái niệm chứng khoán: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thực hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút trái ghi sổ hoặc dữ liệu hóa đầu tư bao gồm các loại chung sau đây: Chứng khoán, trái phiều, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, quyền chọn mua quyền chọn bán hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”.
* Khái niệm chào bán chứng khoán: Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán.
* Chào bán chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc bán chứng khoán rộng rãi ra cho một số lượng lớn công chúng đầu tư trong đó một tỷ lệ nhất định chứng khoán được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ. Tổng giá trị chứng khoán phải đạt mức nhất định.
Theo quy định chung của các nước trên thế giới chào bán chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định: điều kiện về mức vốn, nhiệm vụ công bố thông tin, đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và được sự chấp nhận của cơ quan này. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán được giao dịch tại sở giao dịch. Những công ty phát hành chứng khoán phải thực hiện một chế độ báo cáo công bố thong tin công khai và chịu sự giám sát theo quy định của pháp LCK.
Chủ thể cháo bán chứng khoán ra công chúng
Chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng là những tổ chức tiến hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách chào bán ra công chúng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu đối với phần vốn góp của các tổ chức phát hành (cổ phiếu), hoặc xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (trái phiếu) hoặc xác nhận các quyền lợi hợp pháp khác của người sỏ hữu chứng khoán (quyền ưu tiên mua trước, trái phiếu chuyển đổi…)
Chủ thể phát hành chứng khoán gồm:
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trường hợp này tùy theo yêu cầu nắm giữ vốn của nhà nước tại doanh nghiệp, phần vốn còn lại sẽ được doanh nghiệp chào bán rộng rãi ra công chúng thông qua phát hành cổ phiếu. Hoạt động chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hóa nói trên phải chịu sự điều chỉnh của những quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng.
Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn là công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cố phần thông qua việc chào bán cổ phiếu ra công chúng để gọi vốn rộng rãi từ công chúng đầu tư. Đây cũng là một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được thừa nhận theo Luật doanh nghiệp 2005. Vì vậy khi chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn các công ty này cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật chào bán chứng khoán ra công chúng.
Chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng là những công ty cổ phần phi đại chúng, nay có nhu cầu tăng vốn điều lệ bằng chào bán cổ phiếu rộng rãi ra công chúng; cũng có thể là các công ty cổ phần đại chúng gọi thêm vốn bằng cách chào bán cổ phiếu bổ sung hoặc chào bán các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật cũng có thể là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được phép chào bán chứng khoán ra công chúng để huy động nguồn vốn dài hạn, tạm thời nhàn rỗi trong công chúng đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình.
Ngoài ra, chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng còn các quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng và các công ty đầu tư chứng khoán. Đây là nhóm chủ thể đặc thù chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng (do quỹ công chúng thực hiện) hoặc cổ phiếu (do công ty quản lý quỹ thực hiện) được chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, đem lại lợi nhuận đầu tư cho các quỹ đầu tư chứng chỉ của quỹ hoặc các cổ đông của công ty đầu tư chứng khoán.
Phân loại chủ thể phát hành chứng khoán còn có thể chia làm hai loại là chủ thể trong nước và chủ thể nước ngoài nhưng bài viết này chỉ đi sâu vào chủ thể chính là chủ thể phát hành chứng khoán trong nước.
Phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng
Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực hiện việc chào bán chứng khoán.
* Phương thức chào bán thông qua đại lý
Theo phương thức này tính chất trung gian bên nhận đại lý sẽ ký kết hợp đồng để bán chứng khoán của họ trên thị trường sơ cấp. Bên đại lý có thể là ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm… Các đơn vị này sẽ được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ trực tiếp trên tổng lượng chứng khoán được bán ra.
* Phương thức bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước và sau khi chào bán chứng khoán như định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán, tổ chức vệc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu ngay sau khi phát hành thông qua hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức bảo lãnh và doanh nghiệp phát hành
Mục đích chung đó là bảo đảm cho chứng khoán của tổ chức phát hành sẽ được phân phối hết đợt phát hành chứng khoán của doanh nghiệp được thành công. Sự thành công là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp pháy hành có điều kiện, uy tín trong việc cung cấp hàng hóa cho thị trường để công chúng sẵn lòng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
II. Quy định của pháp luật về điều kiện, trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng
1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
Sau khi thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng, chứng khoán của chủ thể phát hành sẽ được sở hữu rộng rãi bởi các nhà đầu tư. Sự thành, bại của chủ thể phát hành trong quá trình kinh doanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn lợi của các nhà đầu tư (gồm các cổ đông, các chủ sở hữu trái phiếu, chủ sở hữu chứng chỉ quỹ) có được từ cổ tức hoặc từ lãi trái phiếu hoặc chứng chỉ quỹ. Để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các nhà đầu tư và cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, pháp luật mà cụ thể là LCK đã đề ra những điều kiện mà các tổ chức phát hành phải thỏa mãn để được chào bán chứng khoán ra công chúng.
Trước đây, Nghị định của Chính phủ số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 (gọi tắt là Nghị định số 144/2003/NĐ-CP) phân biệt rõ ba loại chào bán cổ phiếu, chào bán trái phiếu và chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng đồng thời hoạt động chào bán cổ phiếu được bóc tách thành hai nhóm: chào bán cổ phiếu lần đầu và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng. Như vậy, tùy thuộc vào loại chứng khoán dự định chào bán và tùy thuộc vào lần chào bán là lần đầu hay chào bán thêm mà chủ thể phát hành phải thỏa mãn những điều kiện khác nhau. Hiện nay theo LCK năm 2006 các điều kiện này cũng được các nhà làm luật thiết kế có phân biệt giữa chào bán cổ phiếu, chào bán trái phiếu và chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng; tuy nhiên không còn có sự phân biệt giữa điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu mà tổ chức phát hành phải thỏa mãn như trước đây. Những quy định của LCK về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng còn lưu ý tới địa vị pháp lý của chủ thể phát hành cũng như địa vị pháp lý nơi diễn ra việc chào bán chứng khoán vì vậy điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng được xây dựng có phân biệt giữa công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ti cổ phần và doanh nghiệp thành lập mới, thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; giữa chào bán chứng khoán trong nước và chào bán chứng khoán ra nước ngoài.
Ngoài ra theo Nghị định 84/2010/NĐ-CP mới ban hành thì tổ chức phát hành phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng thương mại để phong toả số tiền thu được từ đợt chào bán. Trường hợp tổ chức phát hành là ngân hàng thương mại thì phải lựa chọn một ngân hàng thương mại khác để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả chào bán kèm theo xác nhận của ngân hàng thương mại nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được từ đợt chào bán. Sau khi gửi báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được giải toả số tiền thu được từ đợt chào bán.
1.1 Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng
Đối với những doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng, cần thỏa mãn ba điều kiện có liên quan tới vốn, tới kết quả kinh doanh và tới dự định huy động vốn cũng như kế hoạch sử dụng vốn huy động của doanh nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu phải là doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm mà doanh nghiệp phải thỏa mãn là mười tỉ đồng Việt Nam, tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán.
Khi thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam mới ra đời, theo Nghị định của Chính phủ số 48/1998/NĐ-CP), mức vốn điều lệ tối thiểu của tổ chức muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng phải đạt 10 tỉ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, do số lượng hàng hóa (chứng khoán) lưu hành trên thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam khi đó quá nhỏ bé và có xu hướng tăng chậm trong vài năm sau khi Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh ra đời, đã có nhiều ý kiến cho rằng cần hạ thấp yêu cầu về mức vốn điều lệ đã góp của tổ chức phát hành xuống 5 tỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng chủng loại hàng hóa được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, khi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP được ban hành, con số này đã được giảm xuống mức 5 tỉ đồng Việt Nam.
Hiện nay, một mặt, do các doanh nghiệp Việt Nam đã lớn mạnh cả về số lượng và về năng lực tài chính; mặt khác, do chủng loại hàng hóa trên thị trường giao dịch chứng khoán cũng đã phong phú hơn trước, quy định về mức vốn điều lệ mà các doanh nghiệp phải thỏa mãn để được chào bán cổ phiếu ra công chúng lại được nâng lên trong LCK so với mức vốn điều lệ quy định trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP trước đây.
Thứ hai, doanh nghiệp có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Điều đó phải được thể hiện cụ thể ở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó vào năm liền trước năm đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp dự định chào bán cổ phiếu được xem xét trên cả hai phương diện: một là năm liền kề trước đó doanh nghiệp phải có lãi; và hai là doanh nghiệp không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán cổ phiếu. Điều kiện không có lỗ lũy kế là điểm mới của LCK so với Nghị định số 144/2003/NĐ-CP. Trước đây, điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát hành phải thỏa mãn theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP đơn giản hơn, chỉ bao gồm phương diện thứ nhất của kết quả kinh doanh quy định trong LCK. Như vậy, LCK đã khắt khe hơn khi đưa ra điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát hành cổ phiếu ra công chúng phải thỏa mãn vì Luật vẫn tiếp tục kế thừa điều kiện kinh doanh hiệu quả ghi nhận trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP nhưng đồng thời quy định thêm điều kiện doanh nghiệp phải không có lỗ lũy kế.
Điểm mới này của LCK thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật đối với sự an toàn của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Quy định này sẽ góp phần đảm bảo rằng doanh nghiệp phát hành có khả năng đem lại thu thập thỏa đáng cho các cổ đông tương lai. Việc đảm bảo hiệu quả cho đồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư sẽ góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư tiềm năng vào thị trường chứng khoán, từ đó càng thu hút được đông đảo các nhà đầu tư bỏ vốn vào thị trường này.
Thứ ba, doanh nghiệp dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải dành được sự chấp thuận của đại hội cổ đông về phương án phát hành cổ phiếu và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng
Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo đại hội cổ đông của doanh nghiệp phát hành thực hiện được quyền quyết định định hướng phát triển của doanh nghiệp đã được quy định trong Luật doanh nghiệp. Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP chỉ yêu cầu doanh nghiệp đăng kí phát hành có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu mà chưa quan tâm đúng mức tới quyền của cổ đông trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Hiện nay, LCK đã thể hiện sự nhất quán với Luật doanh nghiệp bằng cách thừa nhận quyền quyết định tối cao của đại hội cổ đông đối với phương án huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra, về điều kiện chào bán cổ phiếu thì chúng ta cần phải lưu ý tới điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của một số loại hình doanh nghiệp được quy định trong Điều 4 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của LCK.
Theo đó, đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì thực hiện theo quy định của pháp luật về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì phải thỏa mãn điều kiện sau: đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 12 LCK; Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh thông qua; Có công ty chứng khoán tư vấn trong việc lập hồ sơ chào bán cổ phiếu. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển đổi thành công ty cổ phần thì phải đáp ứng các điều kiện sau:các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 12 LCK; Đáp ứng điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Nghị định 14/2007/NĐ-CP.
Đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đây là doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thuộc đề án phát triển kinh tế - xã hội của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên việc chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng cần đáp ứng 4 điều kiện. Cụ thể là: Có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Có cam kết chịu trách nhiệm liên đới của Hội đồng quản trị hoặc các cổ đông sáng lập đối với phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán; Có tổ chức bảo lãnh phát hành; Có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán.
Còn đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đây là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao được khuyến khích đầu tư theo quy định của pháp luật. Do vậy những điều kiện mà doanh nghiệp này cần đáp ứng là: những điều kiện quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 4 Điều 4 Nghị định 14/2007/NĐ-CP.
Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 12, LCK, DN phải đáp ứng đủ các điều kiện sau mới được chào bán trái phiếu của mình ra công chúng:
Thứ nhất, DN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
Thứ ba, có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua;
Thứ tư, có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Như vậy, khác với trường hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng, ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh và về kế hoạch huy động cũng như sử dụng vốn huy động, doanh nghiệp muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải thỏa mãn thêm một vài điều kiện khác. Đó là doanh nghiệp không được có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với tư cách tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Hơn nữa, trong trường hợp công ti cổ phần chào bán trái phiếu ra công chúng thì phương án phát hành trái phiếu và phương án sử dụng vốn và trả nợ vốn huy động được từ đợt chào bán chỉ cần được sự chấp thuận của hội đồng quản trị thay vì được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông trong phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Sự khác nhau trong điều kiện mà các doanh nghiệp phải thỏa mãn để được chào bán cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng xuất phát từ sự khác biệt giữa bản chất của hai loại chứng khoán: trái phiếu và cổ phiếu. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ti cho chủ sở hữu cổ phiếu là các cổ đông trong khi đó trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu và họ trở thành chủ nợ của công ty. Chính vì vậy, việc chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng có thể sẽ ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu của công ti và cần được các cổ đông chấp thuận, nói cách khác việc làm này phải được đại hội cổ đông thông qua. Còn việc chào bán trái phiếu ra công chúng không làm ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ làm ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ti, vì vậy Hội đồng quản trị với tư cách là cơ quan quản lí công ti cổ phần, thông qua phương án phát hành và sử dụng vốn huy động cũng như phương án trả nợ gốc và lãi khi trái phiếu đến hạn là hoàn toàn phù hợp với chức năng của hội đồng quản trị công ti theo Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu trái phiếu được chào bán là trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có kèm theo chứng quyền thì phương án phát hành, kế hoạch phát hành và phương án sử dụng vốn lại cần được đại hội cổ đông thông qua. Quy định này cũng được lí giải bởi bản chất của hai loại chứng khoán này. Mặc dù là trái phiếu nhưng hai loại trái phiếu này lại có khả năng biến các chủ nợ của công ti phát hành (người sở hữu trái phiếu) thành chủ sở hữu công ti đó (cổ đông) ở thời điểm trái phiếu chuyển đổi chuyển thành cổ phiếu hoặc thời điểm chủ sở hữu trái phiếu có kèm theo chứng quyền thực hiện quyền mua cổ phiếu phổ thông của mình. Như vậy, đây là những trái phiếu đặc biệt, khác với trái phiếu thông thường ở chỗ chúng có khả năng làm tăng số lượng cổ đông có quyền biểu quyết của công ti phát hành ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa sẽ làm thay đổi vị thế của các cổ đông hiện hữu. Việc trao quyền cho đại hội cổ đông thông qua phương án phát hành và sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán hai loại trái phiếu này, vì vậy, hoàn toàn hợp lí và thể hiện tính thống nhất của LCK với Luật doanh nghiệp.
Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư
Khác với mục tiêu của chủ thể chào bán cố phiếu và trái phiếu ra công chúng, chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư không nhằm huy động vốn để phục vụ mục đ