Đề tài Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của đàn lợn tại xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên

Việt Nam là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với trồng trọt, ngành Chăn nuôi nói chung và ngành Chăn nuôi lợn nói riêng đang trên đà phát triển và dần trở thành ngành chính trong nền kinh tế nông nghiệp. Trong những năm gần đây ngành Chăn nuôi lợn đã cung cấp một lượng thịt lớn cho tiêu dùng trong nước và đóng góp một phần đáng kể cho xuất khẩu. Đồng thời cũng thúc đẩy các ngành khác phát triển như: Công nghiệp chế biến thực phẩm, trồng trọt, thuỷ sản, Trong tình hình Chăn nuôi đang phát triển mạnh như hiện nay ở nước ta, đặc biệt là chăn nuôi ở các nông hộ thì việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào áp dụng trong chăn nuôi để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm là một yêu cầu cấp thiết cần được thực hiện ngay như: Các biện pháp nuôi dưỡng, vệ sinh thú y, kiểm soát dịch bệnh, quản lý giết mổ nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người chăn nuôi. Trong quá trình thực tập và thực tế tôi nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của ngành chăn nuôi lợn trên địa bàn, và với mong muốn có những hiểu biết về chăn nuôi lợn theo quy mô công nghiệp. Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự bố chí của nhà trường và được sự phân công của ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thuỷ sản - Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của Th.s Nguyễn Thị Vinh tôi tiến hành chuyên đề “Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của đàn lợn tại địa bàn xã Hàm Tử - huyện Khoái Châu - tỉnh Hưng Yên”

doc52 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7622 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của đàn lợn tại xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI KHOA CHĂN NUÔI & NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI VÀ DỊCH BỆNH CỦA ĐÀN LỢN TẠI X.HÀM TỬ, H.KHOÁI CHÂU, T.HƯNG YÊN HÀ NỘI – 2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI KHOA CHĂN NUÔI & NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI VÀ DỊCH BỆNH CỦA ĐÀN LỢN TẠI X.HÀM TỬ, H.KHOÁI CHÂU, T.HƯNG YÊN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : TH.S NGUYỄN THỊ VINH NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN ĐÌNH HƯỞNG LỚP : LT4CNTY KHÓA : K4 NGÀNH : CNTY HÀ NỘI – 2013 MỤC LỤC Phần I MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với trồng trọt, ngành Chăn nuôi nói chung và ngành Chăn nuôi lợn nói riêng đang trên đà phát triển và dần trở thành ngành chính trong nền kinh tế nông nghiệp. Trong những năm gần đây ngành Chăn nuôi lợn đã cung cấp một lượng thịt lớn cho tiêu dùng trong nước và đóng góp một phần đáng kể cho xuất khẩu. Đồng thời cũng thúc đẩy các ngành khác phát triển như: Công nghiệp chế biến thực phẩm, trồng trọt, thuỷ sản,… Trong tình hình Chăn nuôi đang phát triển mạnh như hiện nay ở nước ta, đặc biệt là chăn nuôi ở các nông hộ thì việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào áp dụng trong chăn nuôi để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm là một yêu cầu cấp thiết cần được thực hiện ngay như: Các biện pháp nuôi dưỡng, vệ sinh thú y, kiểm soát dịch bệnh, quản lý giết mổ…nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người chăn nuôi. Trong quá trình thực tập và thực tế tôi nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của ngành chăn nuôi lợn trên địa bàn, và với mong muốn có những hiểu biết về chăn nuôi lợn theo quy mô công nghiệp. Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự bố chí của nhà trường và được sự phân công của ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thuỷ sản - Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của Th.s Nguyễn Thị Vinh tôi tiến hành chuyên đề “Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của đàn lợn tại địa bàn xã Hàm Tử - huyện Khoái Châu - tỉnh Hưng Yên” 1.2. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU: Mục đích: Điều tra tình hình chăn nuôi lợn ở nông hộ tại xã Hàm Tử. Điều tra tình hình dịch bệnh trên địa bàn xã. Điều tra phương thức nuôi dưỡng, chăm sóc, phòng chống dịch bệnh cho lợn tại địa phương. Trên cơ sở thông tin thu được, đưa ra các giải pháp để phát triển chăn nuôi lợn bền vững, hiệu quả cao. Yêu cầu: Nắm được thực trạng chăn nuôi trong toàn xã và nhu cầu chăn nuôi của địa phương Số liệu điều tra phải ghi đầy đủ, chính xác, khách quan có độ tin cậy cao. Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. CƠ SỞ SINH LÝ SINH SẢN Ở LỢN NÁI Sinh sản là một thuộc tính của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng, là chức năng quan trọng của sự sống, đó là quá trình sinh lý phức tạp nhằm duy trì nòi giống và đảm bảo cho sự tiến hóa của sinh vật. Trong chăn nuôi sinh sản còn mang ý nghĩa tái sản xuất, tạo ra sản phẩm phục vụ lợi ích của con người. Chính vì vậy mà sinh sản gia súc là một thuộc tính mà các nhà chăn nuôi quan tâm, nhằm mục đích làm sao trong một thời gian ngắn nhất gia súc sinh sản được nhiều nhất, thế hệ sau có đặc tính tốt hơn trước, trong đó năng suất sinh sản được nâng cao sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho ngành chăn nuôi. Khi nghiên cứu về khả năng sinh sản của lợn nái người ta quan tâm đến các vấn đề sau: 2.1.1. Sự thành thục về tính Một cơ thể thành thục về tính khi bộ máy sinh dục của cơ thể đã phát triển căn bản hoàn thiện dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết tố, con vật xuất hiện các hiện tượng của hưng phấn sinh dục. Sự thành thục về tính còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau: - Giống gia súc: Các giống khác nhau thường có tuổi thành thục về tính khác nhau. Gia súc có thể vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn gia súc có thể vóc lớn, những giống thuần hóa sớm thì thành thục sớm hơn những giống thuần hóa muộn. Động vật nuôi thì thành thục sớm hơn thú hoang. Theo Phạm Hữu Doanh (1985) thì tuổi thành thục ở lợn lai muộn hơn lợn nái nội (lợn Móng Cái, lợn Ỉ). - Chế độ nuôi dưỡng và quản lý: Trong cùng một giống nếu những cá thể được nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt thì tuổi thành thục sớm hơn và ngược lại những cá thể nuôi dưỡng chăm sóc không tốt thì tuổi thành thục sẽ muộn hơn. Theo Nguyễn Tuấn Anh (1998) để duy trì năng suất sinh sản cao thì nhu cầu dinh dưỡng đối với lợn nái hậu bị cần chú ý đến cách cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3) với khẩu phần ăn 2kg/con/ngày (hàm lượng protein 14%, năng lượng trao đổi từ 2900 – 3000kcal/kg). Trước khi phối giống 14 ngày phải tăng lượng thức ăn 1- 1,5kg có bổ sung khoáng và vitamin giúp cho lợn nái ăn được nhiều, tăng số trứng rụng. Sau khi phối giống cần thay đổi chế độ ăn, chuyển chế độ ăn hạn chế với mức năng lượng trung bình. Nếu cho ăn mức năng lượng và dinh dưỡng cao thì tỷ lệ chết phôi cao dẫn đến số con đẻ ra trên ổ thấp. - Điều kiện ngoại cảnh: Khí hậu và nhiệt độ ảnh hưởng tới tính thành thục của gia súc, khí hậu nóng ẩm có thể làm gia súc thành thục sớm. Ở vùng nhiệt đới gia súc thành thục sớn hơn vùng ôn đới và hàn đới. Tiểu khí hậu chuồng nuôi cũng ảnh hưởng tới quá trình phát dục ở lợn. Hàm lượng Amoniac trong chuồng cao làm lợn chậm động dục. Chăn thả chung giữa gia súc đực và gia súc cái cũng làm gia súc thành thục sớm hơn. - Tuổi thành thục về tính của gia súc: Các loài gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Trên thực tế thì sự thành thục về tính thường biểu hiện sớm hơn sự thành thục về thể vóc, vì vậy để đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát dục được tốt, đồng thời đảm bảo phẩm chất giống ở thế hệ sau nên cho gia súc giao phối và sinh sản sau khi đã hoàn toàn thành thục về tính và thể vóc. - Tuổi thành thục về thể vóc Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể vẫn tiếp tục phát triển về thể vóc. Trong giai đoạn gia súc mới thành thục về tính mà cho giao phối nếu có kết quả thụ thai thì cơ thể chưa đảm bảo để cho thai phát triển nên con đẻ ra sẽ nhỏ đồng thời cơ quan sinh dục và khung xương chậu còn hẹp dễ gây hiện tượng đẻ khó. Vì vậy không nên phối ở lần động dục đầu tiên khi cơ thể phát triển chưa đầy đủ, cũng không nên cho gia súc giao phối quá muộn cũng ảnh hưởng không tốt đến quá trình sinh lý sinh dục bình thường của gia súc cái và ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế người chăn nuôi. 2.1.2. Chu kỳ sinh dục Chu kỳ sinh dục được bắt đầu từ khi gia súc đã thành thục về tính, tiếp tục xuất hiện và chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể già yếu. Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bao trên buồng trứng phát triển, lớn dần, chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang graff. Khi nang graff vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ. Chu kỳ tính ở những loài khác nhau là khác nhau và ở giai đoạn đầu mới thành thục về tính thì chu kỳ chưa ổn định mà phải 2 – 3 chu kỳ tiếp theo mới ổn định. Một chu kỳ của lợn cái giao động trong khoảng từ 18 – 24 ngày, trung bình là 21 ngày và được chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn nghỉ ngơi. 2.1.2.1. Giai đoạn trước động dục Là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1 – 2 ngày nó xuất hiện đầy đủ các hoạt động về sinh lý, tính thành thục. Đây là thời gian chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng, cũng như đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai. Trong giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh nổi lên trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, đầu giai đoạn này noãn bao có đường kính là 4 mm, cuối giai đoạn noãn bao có đường kính 10 – 12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số lượng lông nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu sung huyết nhanh, các tuyến sinh dục phụ tiết dịch nhày, âm đạo tiết ra dịch nhày làm trơn đường sinh dục. Khi quan sát âm hộ của lợn cái thấy bắt đầu sưng lên hơi mở ra có màu hồng tươi và có nước nhờn loãng chảy ra, lợn bắt đầu hay kêu rít và lười ăn, thích nhảy lên lưng con khác nhưng không cho con khác nhảy lên lưng nó. 2.1.2.2. Giai đoạn động dục Giai đoạn này thường kéo dài 2 – 3 ngày, phụ thuộc vào điều kiện nuôi, loài gia súc, giống, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng quản lý, chế độ sử dụng và tình hình sức khỏe nói chung. Giai đoạn này các biến đổi cơ quan sinh dục rõ nét nhất, niêm mạc âm hộ sung huyết ,phù thũng rõ rệt và chuyển sang màu mận chín, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều chuyển từ màu trong và loãng sang đục và đặc như keo dính, nhiệt độ âm đạo tăng từ 0,3 – 0,70C, pH hạ hơn trước. Giai đoạn này chia làm hai pha: Trước chịu đực con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng, ăn uống giảm, hoặc bỏ ăn, kêu rống trong trạng thái ngơ ngẩn, thích nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình. Chịu đực: ở giai đoạn này lợn thích gần đực, khi gần đực thì luôn ở tư thế sẵn sàng chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, hai chân sau rạng ra và hơi khụy xuống sẵn sàng chịu đực. Nếu ở giai đoạn này tế bào trứng gặp tinh trùng và sảy ra quá trình thụ tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngưng lại, gia súc cái chuyển sang giai đoạn có thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tùy loài gia súc thì chu kỳ sinh dục mới bắt đầu. Nếu không sảy ra quá trình trên thì lợn cái sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tính. 2.1.2.3. Giai đoạn sau động dục Trong giai đoạn này toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái bình thường, âm hộ bắt đầu teo dần và tái nhợt. Niêm mạc trong đường sinh dục như âm đạo, tử cung cũng không tiết niêm dịch các tế bào biểu mô dần dần bị sừng hóa, biểu mô ở tầng nhầy bong ra, biểu mô hóa sừng trong âm đạo long dần ra để trở lại trạng thái bình thường, cổ tử cung co lại. Trên buồng trứng thể hồng chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7- 8mm và bắt đầu tiết progesterone. Progesterone tác động lên hệ thần kinh trung ương và tuyến yên, lên trung khu sinh dục, làm thay đổi tính hưng phấn thần kinh, con vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh. 2.1.2.4. Giai đoạn yên tĩnh Là giai đoạn dài nhất thường bắt đầu vào ngày thứ tư sau khi trứng rụng và không được thụ tinh, kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Lợn cái không có biểu hiện về hành vi sinh dục với lợn đực nữa, đây là giai đoạn nghi ngơi yên tĩnh để khôi phục lại cấu tạo chức năng cũng như năng lượng cho chu kỳ tiếp theo. Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản nắm được chu kỳ tính và các giai đoạn của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao năng suất sinh sản. 2.1.3. Cơ chế động dục Chu kỳ động dục của lợn nái được điều khiển bởi thần kinh và nội tiết tố của vùng dưới đồi (Hupothalamus), tuyến Yên và buồng trứng theo cơ chế điều hòa ngược. Khi các nhân tố như ánh sáng mùi vị, nhiệt độ,…tác động tới các cơ quan thính giác, vị giác, khứu giác thì tín hiệu được truyền vào vỏ não và đưa tới vùng dưới đồi. Tại đây giải phóng hormon GRH (Gonandotropine Releaser Hormon), kích thích nên thùy trước tuyến yên giải phóng ra FSH (Foliculine Stimulin Hormon) và LH (Lutein Hormon). FSH kích thích sự phát triển của buồng trứng còn LH kích thích quá trình rụng trứng. Tác động đồng thời của LH và FSH làm cho bao noãn chín và rụng trứng. Trong quá trình bao noãn tiết ra Oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Hàm lượng hormon này trong máu tăng từ 64 – 112mg%. Hormon này kích thích con vật gây ra hiện tượng động dục, cơ quan sinh dục biến đổi, âm đạo hé mở, sừng tử cung ống dẫn trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này. Đến cuối chu kỳ động dục oestrogen lại kích thích nên tuyến yên tiết LH giảm tiết FSH. Khi LH được tiết ra nó kích thích làm cho trứng chín và rụng trứng. Tại vị trí rụng trứng, mạch quản và tế bào sắc tố vàng phát triển hình thành thể vàng. Thể vàng tiết progesteron giúp cho quá trình tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung dễ dàng đồng thời ức chế FSH và LH của tuyến yên làm cho trứng không phát triển được. Trứng không được thụ tinh đến ngày thứ 15 thì thể vàng tiêu biến và chuyển sang thể bạch. Thể bạch không tiết progesteron nữa và chu kỳ mới được bắt đầu. 2.1.4. Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái 2.1.4.1. Tuổi động dục lần đầu Là thời gian từ khi sơ sinh cho đến khi lợn cái động dục lần đầu tiên. Tuổi động dục lần đầu khác nhau tùy theo giống, các giống lợn nội (lợn Móng Cái, lợn Ỉ …) xuất hiện động dục lần đầu tiên rất sớm khi 4 – 5 tháng tuổi, khối lượng đạt 25 – 30kg. Lợn ngoại động dục lần đầu tiên vào khoảng 7 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 85 – 100kg. 2.1.4.2. Tuổi phối giống lần đầu Lợn thành thục về tính sớm nhưng ở lần động dục đầu tiên do buồng trứng còn nhỏ, nên số trứng rụng ít, thể vóc phát triển chưa hoàn thiện. Vì vậy nếu cho lợn phối giống ở lần động dục đầu tiên thì số con đẻ ra ít, khối lượng sơ sinh nhỏ, chất lượng kém do con sơ sinh yếu. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến sự phát triển về thể vóc của lợn mẹ trong thời gian mang thai lần sau. Trong thực tế người chăn nuôi thường cho phối lần đầu ở lần động dục thứ 2 hoặc 3. Lợn cái nội 7 tháng tuổi khối lượng cơ thể đạt 45 – 50 kg thì có thể cho phối giống lần đầu. Lợn ngoại 8 – 8.5 tháng tuổi khối lượng cơ thể đạt 100 – 110kg thì cho phối giống lần đầu. 2.1.4.3. Tuổi đẻ lứa đầu Là thời gian từ khi lợn sinh ra cho đến khi lợn đẻ lứa đầu. Tuổi đẻ lứa đầu phụ thuộc vào tuổi phối giống lần đầu và kết quả phối giống. Đối với lợn ngoại tuổi đẻ lứa đầu thường muộn hơn lợn nội. Nếu phối giống lần đầu sớm thì đẻ lứa đầu sớm. Tuổi đẻ lứa đầu phản ánh khả năng thành thục về tính sớm hay muộn. Lợn nái (Ỉ - Móng Cái) tuổi đẻ lứa đầu thường thì 11-12 tháng, lợn nái lai và lợn nái ngoại nên cho đẻ lứa đầu lúc 12-13 tháng tuổi (Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ 1996) 2.1.4.3. Số con đẻ ra/ổ (con) Là số con đẻ ra trong cùng một lứa bao gồm cả con còn sống và số con đã chết sau khi sinh. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng đẻ sai của nái 2.1.4.4. Số con còn sống đến 24 giờ/ổ (con) Là số con còn sống từ lúc sinh ra đến 24 giờ. Đây là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật rất quan trọng nó nói lên kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng vệ sinh phòng bệnh cho lợn nái và kỹ thuật của dẫn tinh viên. Tỷ lệ sống (%) = Số con đẻ ra còn sống đến 24 giờ x 100 Số con đẻ ra 2.1.4.5. Khối lương sơ sinh/ổ (kg) Là khối lượng toàn ổ được cân sau khi con mẹ đẻ xong con cuối cùng và trước lúc cho con bú lần đầu tiên. Đây là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nói lên trình độ kỹ thuật chăn nuôi, đặc điểm giống và khả năng nuôi con của nái. 2.1.4.6. Số con cai sữa/ổ Là số con còn sống đến lúc cai sữa. Thời gian cai sữa dài hay ngắn phụ thuộc vào tập quán chăn nuôi, kỹ thuật chăn nuôi và trình độ chế biến thức ăn cho lợn con. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào khả năng nuôi con của lợn nái, khả năng tiết sữa của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi lợn con theo mẹ, cũng như khả năng hạn chế các yếu tố bệnh tật cho lợn con. Tỷ lệ nuôi sống (%) = Số con cai sữa x 100 Số con để nuôi 2.1.4.7. Khối lượng cai sữa/ổ (kg) Xác định chỉ tiêu này bằng cách cân lợn con toàn ổ lúc cai sữa. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng nuôi con và tiết sữa của lợn nái và khả năng nuôi dưỡng chăm sóc của người chăn nuôi. 2.1.4.8. Thời gian cai sữa Thời gian cai sũa dài hay ngắn sẽ ảnh hưởng trực tếp tới số lứa đẻ trong năm, thời gian cai sữa tốt nhất là 24 – 28 ngày. Thời gian cai sữa ngắn sẽ làm tăng lứa đẻ/năm. Số lứa đẻ/năm khoảng 2,4 lứa là tốt nhất. 2.1.4.9. Thời gian động dục trở lại Thời gian động dục trở lại sau cai sữa phụ thuộc vào giống, thể trạng, điều kiện dinh dưỡng và thời gian cai sữa cho lợn con. Thời gian cai sữa càng sớm thì thời gian động dục trở lại càng dài số trứng rụng càng ít. Nếu cai sữa cho lợn con từ 10 ngày tuổi thì sau 9,4 ngày thì lợn nái động dục trở lại và có 12,8 trứng rụng. Nếu cai sữa cho lợn con ở 21 ngày tuổi thì sau 6,2 ngày thì lợn nái động dục trở lại và có 15,2 trứng rụng. Nếu cai sữa cho lợn con ở 56 ngày tuổi thì sau 4 ngày thì lợn nái động dục trở lại và có 16,6 trứng rụng. 2.1.4.10. Tổng số con cai sữa/nái/năm Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: số con để nuôi, thời gian cai sữa, kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái nuôi con... 2.1.4.11. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ Là thời gian để hình thành một chu kỳ sinh sản. Bao gồm thời gian chửa + thời gian nuôi con + thời gian chờ động dục lại sau cai sữa và phối giống có chửa. Ba yếu tố trên thì thời gian mang thai là không thể thay đổi còn thời gian nuôi con và thời gian chờ phối có thể thay đổi rút ngắn khoảng cách giữa 2 lứa đẻ. Rút ngắn khoảng cách giữa 2 lứa đẻ sẽ làm tăng số lứa đẻ của nái/năm. Ta có thể thực hiện bằng cách tập cho lợn con ăn sớm từ 7 ngày tuổi, từ đó cai sữa sớm cho lợn con vào lúc 21 – 28 ngày tuổi. Có thể dùng huyết thanh ngựa chửa hoặc hormon Prostaglandin để rút ngắn thời gian từ cai sữa đến động dục trở lại. 2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản 2.1.5.1. Giống Là yếu tố quyết định đến sức sản xuất của lợn nái. Giống khác nhau thì khả năng sinh sản và khả năng tiết sữa khác nhau. Lợn Móng Cái đẻ 12 – 14 con/lứa, lợn Ỉ đẻ 8 – 10 con/lứa… Yorkshire đẻ 10 – 12 con/lứa. Khối lượng lợn con sơ sinh và cai sữa của lợn nái ngoại cao hơn nái nội, khả năng tiết sữa của nái ngoại cao hơn 2 lần nái nội. 2.1.5.2. Ảnh hưởng của dinh dưỡng và thức ăn Thức ăn có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất của lợn nái. Thức ăn cung cấp chất dinh dưỡng, năng lượng cho hoạt động sống của cơ thể do đó thức ăn phải cung cấp đầy đủ cả về số lượng và chất lượng thì con giống mới biểu hiện hết tiềm lực di truyền của giống. Mối quan hệ giữa năng lượng và Protein trong khẩu phần là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ tăng khối lượng. Phương thức cho ăn và giá trị dinh dưỡng trong khẩu phần ăn là chìa khóa ảnh hưởng đến sự tăng khối lượng của lợn. Đảm bảo dinh dưỡng cân đối thì con vật mới phát huy được tiềm năng di truyền của nó. + Dinh dưỡng protein Protein không chỉ là thành phần chính cấu tạo nên mô bào mà còn có chức năng xúc tác sinh học điều hòa trao đổi chất. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả. Nuôi dưỡng lợn nái trong thời kỳ tiết sữa nuôi con với mức protein thấp trong khẩu phần sẽ làm cho lợn nái phải huy động Protein của cơ thể để nuôi thai. Lợn con sinh ra còi cọc, yếu, và làm giảm khả năng tiết sữa của lợn mẹ dẫn đến lợn nái sinh sản kém. Tuy nhiên hàm lượng Protein quá cao sẽ làm đọng lại ở thận gây ngộ độc cho lợn và ảnh hưởng đến các hormon điều tiết sinh trưởng ở lợn nái. Lượng thức ăn và protein cụ thể như sau Chửa kỳ I: Lượng thức ăn 2,2kg/nái/ngày, protein 14% Chửa kỳ II: Lượng thức ăn 2,5kg/nái/ngày, protein 15% Giai đoạn tiết sữa cho ăn tự do protein thô 16% +Năng lượng: Năng lượng rất cần thiết cho mọi hoạt động sống của cơ thể nếu cung cấp thừa hay thiếu đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái. Việc cung cấp năng lượng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn nái có ý nghĩa quan trọng vừa đảm bảo cho sinh lý bình thường cho con vật vừa đảm bảo cho năng suất sinh sản của lợn nái đạt hiệu quả kinh tế cao. Năng lượng được cung cấp dưới 2 dạng: Gluxit chiếm 70 – 80%, Lipit chiếm 10 – 13% tổng số năng lượng cung cấp (Võ Trọng Hốt và cộng sự, 2000). Trong thời gian có chửa nếu khẩu phần của lợn nái có quá nhiều năng lượng thì lợn nái quá béo sẽ dẫn tới hiện tượng sổi chậm động dục hoặc không động dục, phôi chết, đẻ khó, ăn kém sau khi đẻ, hàm lượng mỡ trong sữa cao lợn con dễ mắc bệnh tiêu chảy. Ngược lại nếu cung cấp thiếu năng lượng trong thời gian mang thai sẽ làm cho nái gầy không đủ cho tiết sữa làm lợn con còi cọc. Thiếu năng lượng làm lợn mẹ suy kiệt tỷ lệ hao mòn cao và lợn mẹ chậm động dục trở lại sau cai sữa. Mức năng lượng cụ thể như sau: - Lợn hậu bị 2900 kcal ME/kg
Luận văn liên quan