Thực tế hiện nay, ta thấy rằng kể từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đã góp phần hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy nhiên, các quy định về căn cứ và hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại Điều 192 và Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự khi vận dụng trong thực tiễn đã gặp một số vướng mắc, đặt ra những vấn đề đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải có những hướng dẫn bổ sung cho phù hợp. Đặc biệt là vấn đề về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Bài viết dưới đây về đề tài: “vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này” mong muốn tìm hiểu sâu về đặc điểm pháp lý cũng như thực trạng áp dụng những quy định đó, để đưa ra phương pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3962 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực tế hiện nay, ta thấy rằng kể từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đã góp phần hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy nhiên, các quy định về căn cứ và hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại Điều 192 và Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự khi vận dụng trong thực tiễn đã gặp một số vướng mắc, đặt ra những vấn đề đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải có những hướng dẫn bổ sung cho phù hợp. Đặc biệt là vấn đề về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Bài viết dưới đây về đề tài: “vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này” mong muốn tìm hiểu sâu về đặc điểm pháp lý cũng như thực trạng áp dụng những quy định đó, để đưa ra phương pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
I. VẤN ĐỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM.
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại thủ tục ở tòa án cấp sơ thẩm
Trước đây, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế hay Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động chỉ quy định một loại đình chỉ duy nhất là đình chỉ giải quyết vụ án dưới hình thức “Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án”. Hiện nay, đình chỉ là một phương thức xử lý đặc biệt của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định nhiều loại đình chỉ khác nhau tương ứng với từng giai đoạn tố tụng và từng loại căn cứ khác nhau, theo đó Tòa án sẽ ra nhiều loại quyết định đình chỉ khác nhau: đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, quy định trong BLTTDS về tính chất, căn cứ, hình thức quyết định của các loại đình chỉ nêu trên cũng chưa thật sự rõ ràng, cụ thể, dẫn đến có nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hiểu là việc toà án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Theo đó, sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại.
Các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 192 BLTTDS: “(i) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (ii) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; … (vii) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; (viii) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS còn viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Cụ thể, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà Tòa án đã thụ lý rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình chỉ giải quyết vụ án. Những căn cứ được quy định tại Điều 168 bao gồm: (i) Thời hiệu khởi kiện đã hết; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự….(v) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện; (vi) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Mặt khác, tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn cụ thể về nội dung của từng căn cứ tại Mục I.7 và Mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/5/2006 hướng dẫn về thủ tục giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với căn cứ “vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” thì không phải trong mọi trường hợp sau khi thụ lý vụ án nếu phát hiện không thuộc thẩm quyền thì Tòa án cấp sơ thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, mà tùy từng trường hợp không thuộc thẩm quyền, Tòa án có thể chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết, vẫn tiến tục giải quyết vụ án nhưng phải ghi ký hiệu loại án cho phù hợp hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Còn đối với căn cứ “hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng” thì về mặt từ ngữ, không thể áp dụng là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án, bởi vì lúc này Tòa án chưa thụ lý vụ án. Mà căn cứ này cần phải được hiểu là, nếu đương sự không nộp tiền tạm ứng án phí mà không thuộc trường hợp không phải nộp hoặc được miễn án phí nhưng Tòa án đã thụ lý giải quyết thì sau đó phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
* Thời điểm áp dụng: đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng từ sau khi Tòa án thụ lý sơ thẩm giải quyết vụ án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Nói cách khác, Tòa án cấp sơ thẩm có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, nhận định này rút ra từ suy luận trong các Điều luật tương ứng bởi lẽ BLTTDS không có một quy định cụ thể nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án. Đó là Điều 192 BLTTDS trong phần “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm” quy định về đình chỉ giải quyết vụ án là “sau khi thụ lý vụ án...”, và Điều 210 BLTTDS trong phần “Phiên tòa sơ thẩm” quy định “đình chỉ giải quyết vụ án... được thông qua tại phòng nghị án”.
Hình thức: hình thức của việc đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục sơ thẩm là Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nội dung, mẫu quyết định này đã được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó. Điều luật này không quy định rõ thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng, nhưng thực tế thẩm quyền này chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bởi vì theo quy định tại khoản 2 Điều 210 BLTTDS thì các quyết định tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án. Như vậy thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm thuộc về Hội đồng xét xử.
Về hậu quả pháp lý, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật và làm chấm dứt tố tụng. Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không chỉ chấm dứt về mặt tố tụng mà đồng thời nội dung vụ án cũng được giải quyết nhưng bằng phương thức Tòa án từ chối phân xử tranh chấp. Khác với các vụ án phải qua xét xử thì Tòa án áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp, tuyên bố sự đúng sai, trách nhiệm của các đương sự trong vụ án... nhưng khi đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án tuyên bố tranh chấp giữa các bên đương sự không được Tòa án giải quyết, không áp dụng pháp luật nội dung để phân xử tranh chấp giữa các bên. Nói cách khác, đối tượng xét xử của Tòa án trong vụ án dân sự là yêu cầu của các đương sự đã không được Tòa án giải quyết khi đình chỉ giải quyết vụ án. Chẳng hạn, khi vụ án bị đình chỉ vì lý do đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ không xem xét đến yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ hay không, nội dung tranh chấp đó như thế nào... mà chỉ quyết định chấm dứt giải quyết vụ án. Hệ quả là vụ án bị đình chỉ sẽ làm chấm dứt tố tụng, mặc dù các quyền lợi về mặt nội dung của các đương sự chưa được giải quyết nhưng các đương sự cũng không thể khởi kiện lại để yêu cầu Tòa án giải quyết một lần nữa. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 193 BLTTDS cũng quy định một số ngoại lệ theo đó các đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết vụ án: (i) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (iii) Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (iv) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà vụ án đang giải quyết liên quan đến nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp phúc thẩm
Trong thực tế, một số khái niệm về “đình chỉ” giữa đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và khái niệm đình chỉ xét xử phúc thẩm cũng gây ra một số hiểu lầm mà lý do chủ yếu là người đọc chưa tiếp cận được từng khái niệm cụ thể, hoặc do nhầm lẫn từ ngữ. Bài viết dưới đây sẽ phân biệt những khái niệm trên.
Thứ nhất, khác với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm phải giải quyết hai vấn đề là đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tức là nội dung vụ việc và hoạt động tố tụng; và số phận pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm. Về tính chất, đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm cũng làm chấm dứt các hoạt động tố tụng. Nhưng không chỉ vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm còn phải hủy bản án, quyết định sơ thẩm vì căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở. Ví dụ trường hợp một vụ tranh chấp dân sự đã hết thời hiệu khởi kiện, đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện trước khi thụ lý hoặc phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì lại đưa vụ án đó ra xét xử. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm đó và đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ hai, đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm. Tính chất của đình chỉ xét xử phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành.
Taị Điều 278 BLTTDS, quy định căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được quy định tại Điều 192 BLTTDS (Điều 278 quy định viện dẫn đến Điều 192). Ta thấy rằng đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án khi có những căn cứ đó nhưng vì lý do nào đó, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, đối với căn cứ nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại thủ tục phúc thẩm (bao gồm trước và tại phiên tòa phúc thẩm) thì áp dụng những quy định riêng biệt tại Điều 269 BLTTDS. Đối với trường hợp này, Tòa án cần phải hỏi ý kiến của bị đơn có đồng ý để nguyên đơn rút đơn khởi kiện hay không. Nếu bị đơn đồng ý thì mới đình chỉ giải quyết vụ án, còn nếu bị đơn không đồng ý thì Tòa án vẫn xét xử vụ án.
Thời điểm áp dụng: thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm khác với thủ tục sơ thẩm. Nếu như đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm có thể áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tức là trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ được áp dụng trong phiên tòa phúc thẩm. Quy định này xuất phát từ tính chất của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm là quyết định đến số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, nên nó phải được quyết định ở phiên tòa phúc thẩm. Như vậy, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 269, 278 BLTTDS). Thẩm phán cấp phúc thẩm được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền này.
Hình thức văn bản: Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc bản án phúc thẩm. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 269 BLTTDS). Đối với những căn cứ khác, Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 278 BLTTDS). Theo nguyên tắc chung, quyết định hay bản án phúc thẩm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng như những bản án, quyết định phúc thẩm khác sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
Hậu quả pháp lý: Về tính chất, đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm cũng làm chấm dứt các hoạt động tố tụng. Nhưng không chỉ vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm còn phải hủy bản án, quyết định sơ thẩm vì căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở
Nói cách khác, hậu quả pháp lý của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm là đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tức là nội dung vụ việc và hoạt động tố tụng; và số phận pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm.
II. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM.
Thứ nhất, đối với trường hợp đình chỉ qiair quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, quy định của BLTTDS về các trường hợp đương sự có quyền khởi kiện lại như trên là chưa hợp lý. Cụ thể, đối với trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện thì đáng lẽ trong mọi trường hợp họ không thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự, bất kể thời điểm nào. Nếu tại thời điểm khởi kiện đó họ không có quyền khởi kiện và bị đình chỉ nhưng sau đó họ lại có quyền khởi kiện vì đã hội đủ những điều kiện nhất định thì đây là trường hợp người khởi kiện “chưa có đủ điều kiện khởi kiện” đã được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Tuy nhiên, rất tiếc, BLTTDS đã không quy định trường hợp này được quyền khởi kiện lại. Tương tự như vậy, đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì BLTTDS trao quyền cho họ được khởi kiện lại, nhưng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án thì không được BLTTDS quy định quyền khởi kiện lại của nguyên đơn.
Từ những nhận định trên, xuất phát từ ý kiến cá nhân BLTTDS cần phải quy định bổ sung những trường hợp đương có sự có quyền khởi kiện lại và bổ sung quy định khởi kiện lại đối với cơ quan tổ chức rút văn bản khởi kiện mà nguyên đơn yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án
Thứ hai: trường hợp đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm thì theo quy định tại khoản 2 Điều 218 BLTTDS: Toà án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự trong trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình.
Song song với đó, mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Theo đó, trong các trường hợp: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yâu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình; Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình; Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình, thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của các đương sự đã rút và tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Trường hợp quy định tại mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP có thuộc các trường hợp quy định tại Điều 218 BLTTDS hay không? Mặt khác, những trường hợp quy định tại mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP thì “Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với...”, vậy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ở đây được thể hiện dưới hình thức nào? Có phải bằng Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo mẫu quy định tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP, bởi mẫu văn bản tố tụng này (mẫu 11a, 11b Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP) được áp dụng khi Toà án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và chấm dứt tố tụng. Ngoài ra, trong các trường hợp khác quy định tại Điều 218 BLTTDS như vụ án có một nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu, thì hình thức của quyết định đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của đương sự trong các trường hợp cụ thể ra sao?
Từ đó, vấn đề thực tại đòi hỏi các nhà lập pháp nghiên cứu để đưa ra những quy định cụ thể về hình thức của các quyết định được nói trên? Có phải bằng Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo mẫu quy định tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP không? Mặt khác, quy định bổ sung về hình thức của quyết định đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của đương sự trong các trường hợp một nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu
Mở rộng vấn đề ra, ta thấy rằng khái niệm đình chỉ trong tố tụng dân sự ở từng giai đoạn khác nhau như vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm; vấn đề đình chỉ xét xử ở tòa sơ thẩm, phúc thẩm, hơn nữa trong một loại đình chỉ thì ở từng giai đoạn tố tụng cũng được áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS chưa quy định một cách cụ thể những nội dung đó cho từng loại đình chỉ hoặc cho từng giai đoạn tố tụng. Điều này dẫn đến những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng. Vì những lẽ đó, việc sửa đổi BLTTDS trong thời gian tới cần thiết phải cụ thể hóa căn cứ, hình thức, thủ tục tố tụng, thẩm quyền và hậu quả pháp lý của từng loại đình chỉ cũng như đình chỉ ở từng giai đoạn tố tụng cho phù hợp với tính chất của mỗi loại
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình, sách tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
* Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004.
2. Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/5/2006 hướng dẫn về thủ tục giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm
3. Mục I.1.1 Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 31/3/2005 hướng dẫn phần Những quy định chung của BLTTDS.
* Tạp chí pháp luật.
1. Tống Công Cường, “quy định về “đình chỉ” trong tố tụng dân sự” tạp chí KHPL số 4 (41)/2007
2. Nguyễn Triều Dương, “Về đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, Đặc san góp ý dự thảo BLTTDS, tr.26-31.
Website:
http:// thongtinphapluatdansu.wordpress.com
MỤC LỤC