Đề tài Định giá IPO: Bằng chứng, thực nghiệm ở Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những kênh huy động vốn quan trọng cho doanh nghiệp và là phương thức đầu tư được ưa chuộng. Bên cạnh việc đầu tư trên thị trường thứ cấp, thì đầu tư trên thị trường sơ cấp vào các đợt IPO cũng là một hình thức đầu tư được lựa chọn. Thực trạng IPO những năm gần đây cho thấy nhiều doanh nghiệp tiến hành IPO nhưng thất bại, cùng sự trồi sụt của thị trường chứng khoán, nhiều doanh nghiệp phải giãn tiến độ IPO hoặc kết quả IPO không khả quan, thậm chí nhiều phiên IPO còn phải huỷ bỏ do không có người đăng ký mua. Với mong muốn giới thiệu những vấn đề chính của việc phát hành ra công chúng lần đầu, thực trạng việc định giá doanh nghiệp IPO trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay, qua đó tìm ra những bất cập của việc định giá doanh nghiệp IPO và kiến nghị phương pháp đầu tư để nhà đầu tư tham khảo, đề tài “Định giá IPO- Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam” được tiến hành. Với mục tiêu như trên, đề tài nghiên cứu có nội dung như sau: Chương 1: Lý thuyết và các chứng cứ thực nghiệm về vấn đề định giá phát hành IPO. Chương 2: Thực trạng vấn đề định giá phát hành IPO thời gian qua. Chương 3: Một số giải pháp cho việc định giá phát hành IPO tại Việt Nam Chương 4: Kiến nghị đầu tư.

doc80 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6027 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định giá IPO: Bằng chứng, thực nghiệm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu ((( Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những kênh huy động vốn quan trọng cho doanh nghiệp và là phương thức đầu tư được ưa chuộng. Bên cạnh việc đầu tư trên thị trường thứ cấp, thì đầu tư trên thị trường sơ cấp vào các đợt IPO cũng là một hình thức đầu tư được lựa chọn. Thực trạng IPO những năm gần đây cho thấy nhiều doanh nghiệp tiến hành IPO nhưng thất bại, cùng sự trồi sụt của thị trường chứng khoán, nhiều doanh nghiệp phải giãn tiến độ IPO hoặc kết quả IPO không khả quan, thậm chí nhiều phiên IPO còn phải huỷ bỏ do không có người đăng ký mua. Với mong muốn giới thiệu những vấn đề chính của việc phát hành ra công chúng lần đầu, thực trạng việc định giá doanh nghiệp IPO trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay, qua đó tìm ra những bất cập của việc định giá doanh nghiệp IPO và kiến nghị phương pháp đầu tư để nhà đầu tư tham khảo, đề tài “Định giá IPO- Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam” được tiến hành. Với mục tiêu như trên, đề tài nghiên cứu có nội dung như sau: Chương 1: Lý thuyết và các chứng cứ thực nghiệm về vấn đề định giá phát hành IPO. Chương 2: Thực trạng vấn đề định giá phát hành IPO thời gian qua. Chương 3: Một số giải pháp cho việc định giá phát hành IPO tại Việt Nam Chương 4: Kiến nghị đầu tư. CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VÀ CÁC CHỨNG CỨ THỰC NGHIỆM VỀ VẤN ĐỀ ĐỊNH GIÁ ĐỂ PHÁT HÀNH IPO 1. Lý thuyết về định giá để phát hành IPO 1.1 Khái niệm về IPO Phát hành lần đầu ra công chúng, còn gọi là IPO (viết tắt theo tiếng Anh: Initial Public Offering) là việc chào bán chứng khoán lần đầu tiên ra công chúng. Khái niệm công chúng được hiểu là một số lượng nhà đầu tư đủ lớn với giá trị chứng khoán chào bán cũng đủ lớn. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, một công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại chúng (hay công ty cổ phần đại chúng). Khái niệm IPO dễ bị lẫn lộn với một khái niệm khác là phát hành sơ cấp. IPO là một bộ phận của phát hành sơ cấp, do đó, phát hành sơ cấp chưa chắc đã là IPO. Điểm khác nhau quan trọng giữa IPO và phát hành sơ cấp là phát hành sơ cấp là việc phát hành chứng khoán mới, còn IPO phải là lần phát hành chứng khoán đầu tiên của một công ty. Từ đó có thể thấy một công ty có thể có nhiều lần phát hành sơ cấp nhưng chỉ có duy nhất một lần phát hành IPO. Như vậy, IPO với mỗi doanh nghiệp chỉ có một lần duy nhất, và sau khi đã IPO thì các lần tiếp theo sẽ được gọi là phát hành cổ phiếu trên thị trường thứ cấp. IPO có ý nghĩa rất quan trọng với doanh nghiệp, vì với bất kỳ doanh nghiệp nào, đây cũng là thử thách đầu tiên và quan trọng nhất đối với hàng loạt khía cạnh vận hành. Nguyên nhân của thử thách này là do doanh nghiệp trước khi được phép huy động vốn rộng rãi phải đảm bảo hàng loạt các điều kiện phát hành ngặt nghèo và qui chế báo cáo thông tin rất nghiêm khắc. 1.2 Quy trình IPO  Bước 1: Lựa chọn nhà bao tiêu (nhà bảo lãnh phát hành) Khi quyết định thực hiện IPO, công ty phát hành phải lựa chọn nhà bao tiêu (còn gọi là nhà bảo lãnh). Nhà bảo lãnh thường là một ngân hàng hay một công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đợt phát hành nhỏ chỉ cần một nhà bảo lãnh chính, nhưng nếu đợt phát hành lớn thì phải cần đến một vài nhà bảo lãnh chính để đảm bảo uy tín và sự thành công cho đợt phát hành (các nhà bảo lãnh sẽ thành lập một tổ hợp bảo lãnh). Công ty phát hành và nhà bảo lãnh phát hành thoả thuận với nhau một mức giá nhất định cho một lượng cổ phiếu xác định, sau đó nhà bảo lãnh phải bán lại số cổ phiếu đó cho người mua. Chênh lệch giữa giá thoả thuận của nhà bảo lãnh với công ty phát hành và giá mà nhà bảo lãnh bán cho người mua được xem như một khoản phí bảo lãnh phát hành. Bước 2: Chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành Sau khi chấp nhận làm bảo lãnh phát hành, tổ chức bảo lãnh sẽ liên hệ với các công ty luật và kiểm toán để chuẩn bị hồ sơ đăng ký phát hành. Công việc quan trọng nhất mà nhà bảo lãnh phải làm là chuẩn bị bản cáo bạch, được xem như là một quyển sách giới thiệu về công ty phát hành bao gồm tất cả các thông tin tài chính về công ty phát hành trong vòng 5 năm trở lại đây, thông tin về ban giám đốc và một bản miêu tả thị trường mục tiêu, đối thủ cạnh tranh, chiến lược phát triển của công ty. Bản cáo bạch cũng cảnh báo các nhà đầu tư về mối nguy hiểm của việc mua cổ phiếu này. Công ty phát hành và nhóm bảo lãnh phát hành cùng nhau xác định mức giá cho đợt phát hành mới. Mức giá ước lượng này sẽ được ghi vào bản cáo bạch và mức giá này có thể gần hoặc khác xa với mức giá phát hành cuối cùng. Bước 3 : Nộp hồ sơ xin phép phát hành Sau khi kết thúc giai đoạn phân tích đánh giá, nhà bảo lãnh sẽ hoàn tất hồ sơ và nộp lên Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước chờ xét duyệt. Nếu có sai sót thì công ty phát hành và nhà bảo lãnh phát hành phải sửa chữa, bổ sung kịp thời bằng các hồ sơ bổ sung. Bước 4: Màn vận động (road show) Đây là bước quan trọng góp phần thành công trong đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Vì là các công ty lần đầu phát hành ra công chúng nên các thông tin liên quan đến công ty hầu như không được nhiều người biết đến. Do đó, cần phải có một buổi gặp gỡ giữa công ty phát hành, các nhà bảo lãnh phát hành và các nhà đầu tư tiềm năng để thuyết trình giới thiệu về công ty cũng như những kế hoạch kinh doanh của công ty. Thông tin mà ban lãnh đạo sử dụng để thăm dò thị trường là những thông tin đã trình bày trong bản cáo bạch. Trong buổi vận động, các nhà đầu tư sẽ phát biểu những phản ứng của họ đối với đợt phát hành. Qua thăm dò, công ty phát hành và nhà bảo lãnh sẽ lựa chọn một mức giá chào bán cuối cùng và quyết định kích cỡ của đợt phát hành, các nhà bảo lãnh sẽ cố đưa ra một mức giá phù hợp căn cứ trên nhu cầu dự tính của đợt phát hành và tình hình thị trường. Bước 5 : Công bố phát hành và phân phối cổ phiếu Sau khi được Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước thông qua và cấp giấy phép phát hành, công ty phát hành phải ra thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức và thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ khi được cấp giấy phép. Bước 6: Kết thúc đợtt phát hành Công ty phát hành và các nhà bảo lãnh chuyển giao tiền và chứng khoán tuỳ theo những cam kết mà hai bên đã thoả thuận trong bản cáo bạch. 1.3 Vai trò của IPO 1.3.1 Đối với thị trường chứng khoán Xét tổng thể, đầu tư chứng khoán chỉ là một kênh đầu tư và giá trị đầu tư qua kênh này vẫn còn quá nhỏ so với số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng. Vì vậy, các đợt IPO thành công sẽ có tác dụng thúc đẩy các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán qua đó làm tăng quy mô và khối lượng giao dịch và thu hút thêm luồng tiền lớn vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, cũng không loại trừ khả năng một nguồn vốn tương đối lớn sẽ bị tạm thời hút ra khỏi thị trường để đưa vào đấu giá . Với sự tham gia nhiệt tình của đối tác ngoại, dự kiến mức giá bán cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài dù là "hợp lý nhất" căn cứ vào khả năng đóng góp cho sự phát triển của các doanh nghiệp IPO trong tương lai cũng sẽ rất cao, qua đó thu hút được một nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào với thị trường chứng khoán trong nước. Giữa sự kiện IPO của một doanh nghiệp và thị trường chứng khoán có tác động "tương tác"  lẫn nhau. Sự sôi động hay trầm lắng của thị trường những ngày gần với ngày đấu giá sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp, ngược lại, kết quả đấu giá của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu khác trên thị trường.  Việc xác định mức giá đấu thành công tốt đối với doanh nghiệp cũng sẽ khiến thị trường định giá lại các cổ phiếu đang niêm yết lẫn OTC, trong đó đặc biệt là các cổ phiếu cùng ngành. Ngoài ra, nó còn góp phần làm "tăng nhiệt" cho thị trường nói chung. 1.3.2 Đối với doanh nghiệp Lợi ích đầu tiên mà quá trình IPO mang lại cho doanh nghiệp là cơ hội giao tiếp - truyền thông những thông tin chính xác tới công chúng và là điểm khởi đầu cho mối quan hệ của doanh nghiệp với công chúng. IPO thể hiện khẳng định của doanh nghiệp xây dựng giá trị ổn định dài hạn cho cổ đông. Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, các công ty có thể huy động được nhanh và nhiều vốn thông qua việc tiến hành IPO trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của công ty cũng có thể đạt được tính thanh khoản rất cao và các giá trị gia tăng về giá sau khi IPO. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và ít tốn kém hơn khi huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu những lần sau. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, thu hút được nguồn vốn lớn cho công ty, thuận lợi hơn trong việc vay vốn của ngân hàng. Ví dụ như được vay với lãi suất ưu đãi hơn, thủ tục vay ít rườm rà hơn, và có thể sử dụng cổ phiếu của công ty đại chúng để làm tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Trước khi chào bán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định cho nhân viên mình. Với việc sở hữu cổ phiếu, nhân viên sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn góp thay vì tiền lương thông thường. Điều này làm cho nhân viên công ty làm việc hiệu quả hơn, vì lợi ích của họ gắn liền với lợi ích của công ty. Với việc phát hành chứng khoán, công ty có cơ hội để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp, xây dựng một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty dễ dàng hơn trong công tác tuyển dụng và thay thế nhân sự, nhờ đó tạo được tính liên tục, đảm bảo hiệu quả trong quản lý. Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và tính minh bạch của các báo cáo tài chính của công ty vì các báo cáo của công ty phải được lập theo tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định, cũng như thông tin, số liệu phải đảm bảo được tính minh bạch và hợp lý. Điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt thuận lợi trên, việc phát hành cổ phiếu ra công chúng cũng cần phải lưu ý đến những bất lợi sau: Do cổ phiếu được phát hành rộng rãi ra công chúng nên làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền kiểm soát của các cổ đông sáng lập. Cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do cổ phiếu được giao dịch hàng ngày trên thị trường chứng khoán. Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm 8-10% khoản vốn mà công ty huy động được, bao gồm chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm toán, phí niêm yết…Hàng năm công ty còn phải chi trả chi phí kiểm toán báo cáo tài chính, chi phí chuẩn bị nộp báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và chi phí công bố thông tin định kỳ. Công ty đại chúng phải tuân thủ chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Việc công bố thông tin về doanh thu, lợi nhuận, phương thức hoạt động ... cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông tin nội bộ có thể đẩy công ty vào tình thế bất lợi. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề định giá IPO 2.1 Yếu tố thông tin Giá IPO được xác định dựa vào việc sinh lời của các hoạt động của công ty, do đó đòi hỏi phải có các thông tin về triển vọng lợi nhuận của công ty một cách chính xác để việc định giá IPO có hiệu quả. Ngoài ra, các thông tin về ngành cũng hết sức quan trọng để các tổ chức tư vấn tìm kiếm, tiếp cận những thông tin cần thiết liên quan đến công việc, phục vụ cho việc định giá một cách chuyên sâu và chính xác. 2.2 Môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô phát triển ổn định có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giúp các nhà kinh tế dự đoán tốt hơn các chỉ tiêu kinh tế: chỉ số lạm phát, lãi suất dài hạn, chỉ số tăng trưởng kinh tế… từ đó định lượng tốt hơn các tham số trong các công thức xác định giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, môi trường kinh tế cạnh tranh với sự ổn định của các ngành sản xuất sẽ đem lại sự ổn định cho nguồn cung cấp đầu vào và sức mua thị trường sản phẩm của công ty, giúp các nhà kinh tế có sự dự đoán chính xác hơn về khả năng tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp. 2.3 Môi trường chính trị pháp luật Môi trường chính trị pháp luật minh bạch, ổn định sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, từ đó các kế hoạch cho tương lai cũng trở nên khả thi hơn. Do đó việc dự báo luồng tiền của doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng và đáng tin cậy hơn. Hơn thế, sự quy định rõ ràng của pháp luật về phương pháp tính giá, định giá các tài sản…giúp các doanh nghiệp định giá tính toán một cách chính xác hơn giá trị doanh nghiệp. 2.4 Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp Quy trình IPO bao gồm cả quy trình định giá IPO và cơ chế phát tín hiệu, tiếp cận thị trường, cách thức và thời điểm phát hành ảnh hưởng rất lớn đến việc định giá. Quy trình IPO sẽ ảnh hưởng đến giá trị IPO theo cả chiều hướng tốt lẫn xấu. 2.5 Khả năng sinh lợi và xu thế tăng trưởng trong tương lai Đầu tư có nghĩa là mua tương lai và là hoạt động có tính rủi ro. Chỉ có xu thế tăng trưởng của lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra trong tương lai cao hơn mức lợi tức hiện tại mới hấp dẫn được nhà đầu tư. Nói cách khác, khi định giá trị tài sản doanh nghiệp để đầu tư, thực chất nhà đầu tư không mua tài sản đó mà muốn sở hữu dòng thu nhập do tài sản đó mang lại cho họ trong tương lai. Tuy nhiên, một trong những đặc tính khó đo lường và mô tả nhất của doanh nghiệp là khả năng sinh lợi. Tất nhiên, nhà đầu tư có thể đo lường khả năng sinh lợi dựa trên số liệu kế toán trong quá khứ và hiện tại, nhưng rất nhiều cơ hội kinh doanh đòi hỏi việc hy sinh lợi nhuận hiện tại để nhận được mức lợi nhuận lớn hơn rất nhiều trong tương lai. Do vậy, lợi nhuận hiện tại có thể là một sự phản ánh sai lệch của khả năng sinh lợi trong tương lai. Mặt khác, sẽ là sai lầm nếu kết luận hai doanh nghiệp có mức lợi nhuận hiện tại bằng nhau sẽ có khả năng sinh lợi như nhau, nếu hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp có mức rủi ro cao hơn. 2.6 Tình hình tài chính Một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh sẽ làm giảm rủi ro của đồng vốn đầu tư, hay nói cách khác, nhà đầu tư đánh giá cao các cơ hội đầu tư tương đối an toàn. Trái lại, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu thường gắn với rủi ro cao, nhất là khi doanh nghiệp muốn mở rộng phát triển hoặc triển khai các dự án đầu tư. Nhà đầu tư trả giá thấp để có thể đạt được một tỷ suất lợi nhuận cao bù đắp cho mức rủi ro mà họ có thể phải gánh chịu. Tuy nhiên, nhà đầu tư cần phân biệt rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp mới thành lập khác biệt với doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm. 2.7 Tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp Tài sản hữu hình của doanh nghiệp bao gồm nhà xưởng, máy móc, cơ sở hạ tầng… Như vậy, máy móc, trang thiết bị cũ hay mới, trình độ công nghệ hiện đại hay lạc hậu… đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ hiện tại và tương lai, cũng như khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này sẽ quyết định thị phần của doanh nghiệp và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư. Song song với tài sản hữu hình là tài sản vô hình. Thương hiệu, bản quyền, bí quyết kỹ thuật, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của doanh nghiệp, nhưng nó lại rất có giá trị và có thể trở thành yếu tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nếu như trước đây, tài sản hữu hình thường được coi là thước đo giá trị và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thì hiện nay, cách hiểu này đã thay đổi đáng kể và tài sản vô hình đang dần trở thành yếu tố quyết định giá trị của doanh nghiệp. 2.8 Yếu tố con người Mặc dù, trong thời đại ngày nay, công nghệ đã trở thành một trợ thủ đắc lực trong quản lý trên mọi phương diện. Tuy nhiên, công nghệ dù có hữu dụng đến mấy cũng không đem lại những biến đổi tích cực, nếu con người không sẵn sàng hoặc không có khả năng ứng dụng một cách hiệu quả. Con người chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà quản trị doanh nghiệp trở thành một trong những yếu tố rất đáng quan tâm khi xem xét đầu tư vào một cổ phiếu của doanh nghiệp. Một ban lãnh đạo tài năng được xem như là xương sống của bất kỳ doanh nghiệp thành công nào. Lãnh đạo có tài có thể đưa doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đạt được những thành tựu được xã hội ghi nhận và ngược lại. Thế nhưng, vấn đề định giá ban lãnh đạo doanh nghiệp thật sự là việc làm rất khó, bởi có thể nói rằng, yếu tố con người, nhất là các vị trí quản trị cấp cao được xem là tài sản vô hình lớn nhất của doanh nghiệp, mà việc định giá tài sản vô hình luôn luôn là một việc không hề đơn giản. 3. Vấn đề định giá phát hành IPO trên thế giới 3.1 Lý do và thời gian phát hành ra công chúng. Trở thành công ty đại chúng đánh dấu một bước ngoặt trong chu kỳ sống của công ty. Phát hành ra công chúng sẽ giúp công ty tăng vốn chủ sở hữu từ đó hỗ trợ cho kế hoạch tăng trưởng trong tương lai, nhưng đánh đổi lại là sự giám sát của công chúng đối với công ty cũng tăng lên. Brealy và Myers (2005) phát biểu rằng: các công ty Mỹ có thể tìm kiếm nguồn vốn nội bộ trong những năm đầu tiên và chỉ phát hành ra công chúng những năm sau đó. Pagano, Panetta và Zingales (1998) trong nghiên cứu của họ về các công ty Italia, tìm thấy rằng các công ty sẽ không nhằm mục đích tìm kiếm tiền bạc cho sự tăng trưởng mà chủ yếu là để tái cân bằng cấu trúc vốn của họ sau khi đầu tư và tăng trưởng cao. Đầu tư và đòn bẩy giảm trong thời kỳ hậu IPO. Họ cho rằng phát hành ra công chúng là một sự lựa chọn tỉnh táo trong khi một số khác lại thích duy trì hình thức sở hữu tư nhân hơn. Như vậy phát hành ra công chúng sẽ không phải là một yếu tố tự nhiên trong vòng đời của một công ty. Lerner (1994) đã tìm thấy rằng có những lúc (cơ hội mở cửa) thị trường có thể rất lạc quan về một ngành công nghiệp đặc biệt và nó có thể là một thời điểm tốt cho các công ty trong ngành đó phát hành ra công chúng. Trong các nghiên cứu của 350 công ty vốn đầu tư mạo hiểm tài trợ cho những công ty công nghệ sinh học, ông tìm thấy rằng các công ty công nghệ này sẽ phát hành ra công chúng khi giá trị cổ phần cao; và khi giá thấp các doanh nghiệp chọn con đường sở hữu tư nhân. 3.2 Định giá IPO Benveniste và Spindt (1989) thấy rằng nhà bảo lãnh cố gắng giải quyết vấn đề bất cân xứng thông tin giữa công ty và các nhà đầu tư bằng cách tiết lộ thông tin nội bộ của công ty để khuyến khích họ đầu tư. Trong nghiên cứu về 190 doanh nghiệp của Kim và Ritter (1999) cho thấy: các nhà bảo lãnh dự báo những con số thu nhập năm tiếp theo và nhân chúng với các tỷ lệ P/E của các công ty cùng ngành để có được mức giá xấp xỉ của IPO. Họ lập luận rằng bởi vì hầu hết các công ty phát hành ra công chúng là các công ty trẻ, đó là khó khăn để ứng dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền DCF để xác định giá trị các doanh nghiệp này vì dòng tiền trong tương lai cũng như tỉ lệ chiết khấu đều không chắc chắn. Tuy nhiên họ cũng thấy rằng tỷ lệ P/E được tính bằng cách sử dụng những con số lịch sử không cho kết quả chính xác, trong khi đó dự báo những con số và sau đó sử dụng chúng để định giá thì chính xác hơn nhiều. Purnanandam và Swaminathan (2002) nói rằng các đợt IPO được định giá cao hơn 50% so với các công ty cùng ngành. Ngoài ra họ thấy công ty càng bị định giá IPO cao thì hiệu quả hoạt động trong dài hạn thì càng tệ. 3.3 Rủi ro trong đầu tư IPO cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ không có thông tin. Một số nhà đầu tư cảm thấy IPO là những món hời dễ kiếm. Nếu nhà đầu tư đã mua được cổ phiếu trong đợt IPO và họ đánh cược những cổ phiếu này trong ngày niêm yết của công ty, tính trên trung bình họ sẽ có thể có lợi nhuận cao hơn so với thị trường. Tuy nhiên có một yếu tố nguy cơ ở đây. Nguy cơ trong việc ngăn chặn tiền của một người trong IPO và không nhận được phân bổ. Rock (1986) đã chứng minh các nhà đầu tư nhỏ lẻ không có thông tin có thể gặp phải vấn đề “Winner’s curse”. Họ có thể mua được những cổ phiếu có tỷ suất sinh lợi thấp trong ngày gi