Theo Luật thanh tra năm 2003 thì cơ quan thanh tra không còn nhiều thẩm quyền độc lập như quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 mà phụ thuộc vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước; không quy định tổ chức thanh tra chuyên ngành ở cục, tổng cục mà quy định thống nhất mỗi bộ, ngành chỉ có một tổ chức thanh tra là Thanh tra Bộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy vì quá lệ thuộc vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước nên hoạt động thanh tra khó phát huy được hiệu quả; việc tổ chức ở mỗi bộ, ngành một tổ chức thanh tra cũng hầu như không thực hiện được. Vì vậy, trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thanh tra, nhiều ý kiến đề nghị tăng thêm nhiều thẩm quyền độc lập cho cơ quan thanh tra cũng như tái quy định tổ chức Thanh tra Cục, Tổng cục. Bài viết tập trung phân tích cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của cơ quan thanh tra cũng như tổ chức Thanh tra Cục, Tổng cục.
7 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2041 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Định hướng mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Định hướng mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra
Theo Luật thanh tra năm 2003 thì cơ quan thanh tra không còn nhiều thẩm quyền độc lập như quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 mà phụ thuộc vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước; không quy định tổ chức thanh tra chuyên ngành ở cục, tổng cục mà quy định thống nhất mỗi bộ, ngành chỉ có một tổ chức thanh tra là Thanh tra Bộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy vì quá lệ thuộc vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước nên hoạt động thanh tra khó phát huy được hiệu quả; việc tổ chức ở mỗi bộ, ngành một tổ chức thanh tra cũng hầu như không thực hiện được. Vì vậy, trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thanh tra, nhiều ý kiến đề nghị tăng thêm nhiều thẩm quyền độc lập cho cơ quan thanh tra cũng như tái quy định tổ chức Thanh tra Cục, Tổng cục. Bài viết tập trung phân tích cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của cơ quan thanh tra cũng như tổ chức Thanh tra Cục, Tổng cục.
1. Cơ sở định hướng mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Thanh tra” được hiểu là “Kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” (1); theo Từ điển từ Hán Việt thì “thanh tra” được hiểu là là “Xét rõ, điều tra để xác minh và xử lý” (2). Như vậy, “Thanh tra” hiểu một cách chung nhất là việc xem xét tại chỗ các hoạt động của đối tượng thanh tra nhằm xác minh và xử lý đối với những vi phạm của đối tượng này. Với vai trò là công cụ của quản lý nhà nước, mục đích chính của thanh tra là tham mưu cho chủ thể quan quản lý nhà nước kiểm soát việc chấp hành pháp luật của các đối tượng quản lý (đối tượng quản lý cũng chính là đối tượng thanh tra). Ngoài việc phát hiện ra những sai phạm để xử lý thì thông qua công tác thanh tra, chủ thể quản lý nhà nước còn kịp thời điều chỉnh, khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật. Chính bởi vậy, thanh tra là khâu không thể thiếu được trong quản lý nhà nước, ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần có hoạt động thanh tra, quản lý nhà nước sẽ không đạt được hiệu quả nếu tách ly với hoạt động thanh tra.
Với mục đích chính là nhằm xác minh những sai phạm của đối tượng quản lý, cho nên hoạt động thanh tra cuối cùng phải kết luận rõ đúng sai của các đối tượng này trong việc chấp hành pháp luật. Đặc điểm này cho thấy, hoạt động của thanh tra có tính chất của hoạt động tài phán; thủ tục hoạt động của thanh tra cũng có nhiều nét tương đồng với thủ tục tố tụng. Do đó, để hoạt động này thực sự có hiệu lực, hiệu quả, đòi hỏi hoạt động thanh tra phải được tiến hành một cách độc lập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, bao gồm các quy định về việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, ra quyết định thanh tra, ra kết luận thanh tra; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thanh tra (người có thẩm quyền quyết định việc thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên) cũng như quyền và trách nhiệm của đối tượng thanh tra v.v... Tuy nhiên, do nhiệm vụ của thanh tra là tham mưu cho chủ thể quản lý nhà nước nên hoạt động của thanh tra phải gắn chặt với chủ thể quản lý nhà nước. Chính vì vậy mà hoạt động thanh tra tuy độc lập nhưng mức độ độc lập không giống như hoạt động tố tụng mà sự độc lập của nó chỉ mang tính tương đối. Tóm lại, thanh tra, tuy là một nội dung của quản lý nhà nước nhưng lại phải có tính độc lập tương đối với quản lý nhà nước.
Chính những đặc điểm nêu trên của thanh tra chi phối đến mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cũng như thẩm quyền của cơ quan này. Do đó, việc sửa đổi Luật Thanh tra cần phải bám sát vào đặc điểm của hoạt động thanh tra và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa thanh tra với hoạt động quản lý nhà nước.
Luật Thanh tra năm 2004 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990. Tuy nhiên, về mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra có những thay đổi căn bản so quy định của Pháp lệnh Thanh tra. Xuất phát từ quan điểm cho rằng, hoạt động thanh tra độc lập với hoạt động quản lý nhà nước, cho nên mô hình tổ chức thanh tra trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 được xây dựng nhằm bảo đảm tối đa tính độc lập cho cơ quan thanh tra. Theo đó, hoạt động thanh tra có sự tách ly với chủ thể quản lý nhà nước và “chỉ tuân theo pháp luật”, cơ quan thanh tra độc lập trong việc ra quyết định thanh tra, kết luận thanh tra. Về mặt tổ chức, tuy nằm trong bộ máy hành chính, nhưng cơ quan thanh tra được tổ chức tương đối độc lập theo ngành dọc từ trung ương tới địa phương, thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp dưới trực tiếp, thậm chí đối với thanh tra Bộ còn do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; cơ quan thanh tra cấp dưới chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan thanh tra cấp trên. Với cách thức tổ chức quá chú trọng bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra như vậy đã không phản ánh được đầy đủ mục đích chính của thanh tra là tham mưu cho người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát việc chấp hành pháp luật của các đối tượng quản lý, dẫn đến hoạt động thanh tra không hỗ trợ được nhiều cho nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Để khắc phục những hạn chế này của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra trong Luật Thanh tra năm 2004 được xây dựng theo lối tư duy khác. Xuất phát trên quan điểm cho rằng, thanh tra là một chức năng của quản lý nhà nước, cho nên tổ chức và hoạt động thanh tra phải gắn bó chặt chẽ với chủ thể quản lý nhà nước: cơ quan thanh tra không còn được độc lập trong việc ra quyết định thanh tra cũng như ra kết luận thanh tra, mà chỉ có quyền xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra để trình người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt; cơ quan thanh tra không có quyền tự mình ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (trừ Tổng thanh tra Chính phủ) mà thẩm quyền này do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước quyết định; trong trường hợp xét thấy cần thiết, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp ra quyết định thanh tra và kết luận thanh tra; hoạt động thanh tra chuyển từ chỗ chỉ tuân theo pháp luật sang phải tuân theo pháp luật; về mặt tổ chức, người đứng đầu cơ quan thanh tra do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức v.v... Tuy nhiên, tổ chức cơ quan thanh tra như vậy lại quá chú trọng bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra mà không chú ý tới tính độc lập tương đối của hoạt động này. Thực tiễn thi hành Luật Thanh tra trong thời gian qua cho thấy, chính vì sự lệ thuộc thái quá vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước đã làm mất đi tính khách quan, độc lập tương đối của hoạt động thanh tra, làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này. Nói cách khác là làm cho công cụ thanh tra kém đi độ sắc bén trong hoạt động quản lý nhà nước.
2. Định hướng mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra
Từ hai mô hình nêu trên cho thấy, nếu tổ chức và hoạt động của thanh tra quá thiên về thái cực nào (hoặc quá chú trọng bảo đảm tính độc lập hoặc quá chú trọng bảo đảm tính lệ thuộc của cơ quan thanh tra vào cơ quan quản lý nhà nước) cũng đều đưa tới kết quả là hoạt động thanh tra không phát huy được hiệu lực. Vậy, giải quyết vấn đề tổ chức và hoạt động của thanh tra như thế nào trong sửa đổi Luật Thanh tra lần này để bảo đảm cho thanh tra vừa là công cụ của quản lý nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó?
Thứ nhất, để bảo đảm cho thanh tra thực sự là công cụ hữu hiệu của quản lý nhà nước đòi hỏi tổ chức thanh tra phải được xây dựng đáp ứng các yêu cầu sau:
- Thanh tra là một bộ phận cấu thành của cơ quan quản lý nhà nước. Với nguyên tắc ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần có hoạt động thanh tra, do đó các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước cần phải tổ chức hoạt động thanh tra để hỗ trợ cho nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình. Theo đó, thủ trưởng cơ quan thanh tra phải do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo yêu cầu của nhiệm vụ quản lý nhà nước. Điều đó có nghĩa là hoạt động thanh tra chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước, kể cả trong trường hợp phát hiện có có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Quy định như vậy nhằm bảo đảm cho người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát được chặt chẽ hoạt động thanh tra và định hướng cho hoạt động này, phục vụ cho yêu cầu của quản lý nhà nước.
- Kết luận thanh tra phải được cơ quan thanh tra báo cáo với người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước để xử lý. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước có toàn quyền trong việc sử dụng kết luận thanh tra.
Thứ hai, để bảo đảm được tính độc lập tương đối cho hoạt động thanh tra, đòi hỏi tổ chức thanh tra phải được xây dựng đáp ứng các yêu cầu sau:
- Thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên phải có vai trò nhất định trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp dưới. Theo đó, tuy thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thủ trưởng cơ quan thanh tra là của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước nhưng cần phải được sự đồng ý của thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp.
- Trên cơ sở chương trình, kế hoạch thanh tra do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước quyết định, thủ trưởng cơ quan thanh tra chủ động tổ chức việc thực hiện; người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước không được can thiệp vào việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra trừ trường hợp chương trình, kế hoạch này có sự thay đổi.
- Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước không được can thiệp vào các hoạt động nghiệp vụ của thanh tra. Trình tự, thủ tục thanh tra đã được pháp luật quy định chặt chẽ, cụ thể, do đó cơ quan thanh tra cần tuân thủ nghiêm nghặt trình tự, thủ tục này mà không chịu bất cứ tác động nào cho dù đó là của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước nhằm đưa ra một kết luận thanh tra đúng đắn.
- Kết luận thanh tra phải là của cơ quan thanh tra chứ không phải là của Đoàn thanh tra cũng như của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Sau khi có kết luận thanh tra, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể đồng ý hoặc không đồng ý với kết luận thanh tra nhưng không thể sửa kết luận thanh tra. Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật Thanh tra năm 2004 thì Trưởng Đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo kết quả thanh tra với người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra, đồng thời gửi báo cáo này cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Quy định như vậy không phản ánh đúng vai trò của cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với Đoàn thanh tra, dường như cơ quan thanh tra bị xếp ra bên ngoài trong mối quan hệ giữa Đoàn thanh tra với người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước, trong khi đó trách nhiệm thanh tra là của cơ quan thanh tra, còn đoàn thanh tra chỉ là phương thức để cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra. Vì vậy, quy định này cần được sửa đổi theo hướng trong trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra thì người báo cáo kết quả thanh tra phải là cơ quan thanh tra; cơ quan thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động của Đoàn thanh tra, thanh tra viên và xem xét kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra để báo cáo kết quả thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước;
- Trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước không đồng ý với kết luận thanh tra thì cơ quan thanh tra phải tuân thủ quyết định đó nhưng có quyền báo cáo với cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp để cơ quan này xem xét báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; trường hợp vụ việc có dấu hiệu hình sự thì cơ quan thanh tra có quyền kiến nghị với cơ quan điều tra, kiểm sát về việc khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan này có trách nhiệm xem xét kiến nghị do cơ quan thanh tra chuyển đến. Mục đích cuối cùng là để cho hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả, phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm pháp luật. Việc bổ sung những quy định này là cần thiết nhằm tránh tình trạng xảy ra trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước bao che cho việc làm sai trái vi phạm pháp luật của cấp dưới, dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật không bị tố giác. Hơn nữa, đối với một hành vi có dấu hiệu của một tội phạm hình sự thì pháp luật về tố tụng hình sự đã quy định rõ bất cứ người nào cũng có trách nhiệm tố giác với cơ quan bảo vệ pháp luật.
Về vấn đề Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục: theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành thì về nguyên tắc mỗi bộ, ngành chỉ có một tổ chức thanh tra, Thanh tra Bộ là đầu mối giúp Bộ trưởng phụ trách toàn bộ công tác thanh tra, kể cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo về tổ chức thanh tra ở các bộ, ngành theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 (theo Pháp lệnh này thì ở các bộ, ngành, ngoài Thanh tra Bộ còn có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục). Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Thanh tra thì nguyên tắc này không được thực hiện triệt để. ở một số bộ, ngành vẫn duy trì cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục bên cạnh Thanh tra Bộ, thậm chí có nơi còn thành lập mới cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Dẫn đến thực trạng hiện nay ở một số bộ, ngành thì có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục (ví dụ như Thanh tra Cục đường bộ, Cục đường sắt, Cục đường thủ nội địa, Cục hàng hải, Cục hàng không thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; thanh tra Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế thuộc Bộ Tài chính...); một số bộ, ngành thì mặc dù có Tổng cục, Cục nhưng lại không thành lập cơ quan thanh tra mà hoạt động thanh tra tại các Tổng cục, Cục này do Thanh tra Bộ đảm nhiệm (ví dụ như Thanh tra Cục đăng kiểm thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Tổng cục môi trường, Tổng cục quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ giáo dục và đào tạo...). Vậy tại sao quy định của Luật không được thực thi? Phải chăng do công tác tổ chức thi hành Luật chưa tốt hay là do quy định của Luật chưa phù hợp với thực tế?
Xem xét tổ chức các Tổng cục, Cục ở các bộ, ngành cho thấy, nhiều Tổng cục, Cục được phân cấp thực hiện quản lý nhà nước, các đối tượng quản lý nhà nước do các Tổng cục, Cục này phụ trách không chỉ giới hạn ở đội ngũ cán bộ, công chức của mình mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoạt động trong lĩnh vực do mình phụ trách (như Cục đường bộ, Cục đường thuỷ nội địa thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Cục vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế...). Về bản chất, các Tổng cục, Cục này thực sự là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực do mình phụ trách. Xuất phát từ nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra, cho thấy nhu cầu quản lý nhà nước ở những Tổng cục, Cục này đòi hỏi phải có thanh tra, bao gồm cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành: thanh tra hành chính thực hiện thanh tra đối với cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức trực thuộc; còn thanh tra chuyên ngành thực hiện thanh tra đối với cơ quan, tổ chức đơn vị, cá nhân bên ngoài bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước và thuộc phạm vi lĩnh vực do cơ quan này phụ trách. Vấn đề đặt ra là cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra ở những Tổng cục, Cục này đặt ở đâu? ở Tổng cục, Cục hay ở Bộ? ở những Tổng cục, Cục này nếu giao nhiệm vụ thanh tra cho Thanh tra Bộ đảm nhiệm thì về nguyên tắc Thanh tra Bộ là “công cụ” của Bộ trưởng trong quản lý nhà nước nên Thanh tra Bộ không phải là cơ quan tham mưu cho Tổng cục, Cục (về địa vị pháp lý cơ quan này ngang với Tổng cục, Cục). Vì vậy, việc quy định Thanh tra Bộ có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành pháp luật của các đối tượng thuộc phạm vi do Tổng cục, Cục như quy định của Luật hiện hành là chưa phù hợp với thực tế yêu cầu quản lý nhà nước của các Tổng cục, Cục. Điều này lý giải tại sao mặc dù Luật Thanh tra không quy định việc thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục nhưng trong thực tế Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố nhằm tham mưu cho Tổng cục, Cục trong quản lý nhà nước. Tính đến nay đã có hàng chục Tổng cục, Cục đã tổ chức cơ quan thanh tra riêng của mình để tiến hành hoạt động.
Ngoài loại Tổng cục, Cục nêu trên, trong thực tế còn có một số Tổng cục, Cục trực tiếp là đơn vị tác nghiệp nên chỉ đơn thuần thực hiện việc quản lý mang tính nội bộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình (Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp; Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường...). Đối với loại Tổng cục, Cục này thì trong thực tế cũng phát sinh nhu cầu thanh tra, nhưng chỉ có một loại là thanh tra hành chính, tức thanh tra đối với hoạt động của chính đội ngũ cán bộ, công chức của Tổng cục, Cục. Về nguyên tắc thì do các Tổng cục, Cục này là đơn vị độc lập, tuy không quản lý đối với các đối tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài nhưng vẫn thực hiện quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan mình nên vẫn cần có hoạt động thanh tra để tham mưu giúp mình trong việc quản lý đội ngũ này. Tuy nhiên, do các Tổng cục, Cục này không được phân cấp quản lý nhà nước nên tính độc lập không cao, chỉ đơn thuần quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình nên phần nào trùng với trách nhiệm quản lý của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Vì thế, đối với các Tổng cục, Cục loại này không nhất thiết phải thành lập cơ quan thanh tra để tham mưu cho mình trong quản lý mà hoàn toàn có thể sử dụng cơ chế “kiểm tra” để quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trực thuộc; còn trong trường hợp cần thiết vượt quá thẩm quyền của Tổng cục, Cục thì Thanh tra Bộ sẽ tiến hành thanh tra để tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc quản lý. Quy định như vậy nhằm đơn giản hoá tổ chức thanh tra tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ như mục tiêu đề ra khi xây dựng Luật Thanh tra năm 2004.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, việc thành lập cơ quan thanh tra tại một số Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý là hết sức cần thiết. Do đó, việc sửa đổi Luật lần này nhất thiết phải bổ sung quy định về Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Tuy nhiên, cần thống nhất rằng không phải ở bất kỳ Tổng cục, Cục nào cũng thành lập cơ quan thanh tra mà chỉ nên thành lập ở một số Tổng cục, Cục, tránh tình trạng thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục tràn lan, không hiệu quả. Để bảo đảm điều này, cần đưa ra các tiêu chí cụ thể cho các Tổng cục, Cục được phép thành lập cơ quan thanh tra. Đồng thời, Luật Thanh tra nên sửa đổi theo hướng quy định rõ: Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục chỉ đảm nhận chức năng thanh tra chuyên ngành; còn thanh tra hành chính thì vẫn nên để Thanh tra Bộ đảm nhiệm. Bên cạnh đó, thực tế tổ chức bộ máy Nhà nước ta cho thấy, ngoài các Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý nhà nước còn có một số ủy ban, Ban thuộc Bộ cũng được giao chức năng này, chẳng hạn như ủy ban chứng khoán thuộc Bộ Tài chính, Ban cơ yếu Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ v.v... Đối với các cơ quan này cũng cần được thành lập cơ quan thanh tra để đảm nhiệm chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi lĩnh vực phụ trách.
(1) Trang 882, Từ điển Tiếng Việt do NXB Đà Nẵng phối hợp với Trung tâm từ điển học xuất bản năm 1995.
(2) Trang 366, Từ điển từ Hán Việt do NXB TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 2001.