Nhiều báo cáo vể DLST đã khẳng định DLST là hình thái du lịch không làm
tổn hại đến các khu vực tự nhiên, nhằm mục đích chiêm ngưỡng và hiểu biết thiên nhiên.
DLST như sự bền vững đã trở thành một thuật ngữ bàn cãi của những năm 1990
như một hình thức của du lịch lựa chọn ở các nước đang trở nên thân thiện với môi
trường và giảm thiểu những tác động có hại cho môi trường của du lịch. Thuật ngữ
Ecotourism (DLST) được viết tắt từ nhóm chữ Ecologically responsible tourism,
nghĩa là du lịch ý thức sinh thái.
Cho đến nay, chúng ta đã rất cố gắng để xác định khái niệm DLST, nhưng
Eugenio Yunis (2002) cảm thấy những nỗ lực này là không cần thiết và vô ích vì có
nhiều hiểu biết du lịch liên quan đến thiên nhiên cũng được gọi là DLST. Do đó,
nói một cách cụ thể nhất thì chúng ta sẽ đồng ý với khái niệm “DLST là du lịch
được mở rộng hiểu biết về chúng”. Thực chất của khái niệm này là nhu cầu DLST
tác động lên khu vực tham quan một cách tối thiểu nhất. Do đó, sự hữu ích của khái
niệm này theo Liên đoàn Vườn Quốc Gia Châu Âu đã xác định du lịch bền vững
trong môi trường tự nhiên là: “Tất cả những loại hoạt động quản lý và phát triển du
lịch để duy trì sự thống nhất về kinh tế, xã hôi, môi trường và sự phát triển ổn định của
thiên nhiên để tạo ra nguồn tài nguyên văn hóa vĩnh cửu”
149 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng qui hoạch du lịch sinh thái tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--- ---
BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI CẤP BỘ
ĐỀ TÀI:
Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
Cộng tác viên :Ths. GVC. Nguyễn Tấn Viện.
Ths. Trần Đức Minh
Ths. Phạm Thị Ngọc
Tp. Hồ Chí Minh , tháng 12 năm 2005
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths.GVC. Trần Văn Thành
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Địa, Phòng nghiên cứu khoa học và sau đại học
trường Đại học sư phạm TP.HCM đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện đề
tài.
UBND tỉnh, huyện, Sở Thương mại và Du lịch của 12 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu
Long đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho chúng tôi tham khảo tài liệu, khảo sát thực địa, chụp ảnh, quay
phim.
Ông Nguyễn Đức Ngắn, Giám đốc Trung tâm Sinh thái và Tài nguyên lâm nghiệp, Phân
viện điều tra Quy hoạch Rừng II đã tận tình giúp đỡ cung cấp nguồn tài liệu tham khảo đáng tin
cậy.
TP. HCM, ngày 20 tháng 12 năm 2005.
Chủ nhiệm đề tài và các cộng tác viên
Ths.GVC. Trần Văn Thành
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
PHẦN THỨ NHẤT
TỔNG QUAN
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ, MỤC TIÊU, NỘI
DUNG, PHƯƠNG PHÁP LUẬN, GIỚI HẠN PHẠM VI
NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ – MỤC
TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP
LUẬN, GIỚI HẠN PHẠM VI
NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1.1. Tổng quan về du lịch sinh thái.
Nhiều báo cáo vể DLST đã khẳng định DLST là hình thái du lịch không làm
tổn hại đến các khu vực tự nhiên, nhằm mục đích chiêm ngưỡng và hiểu biết thiên nhiên.
DLST như sự bền vững đã trở thành một thuật ngữ bàn cãi của những năm 1990
như một hình thức của du lịch lựa chọn ở các nước đang trở nên thân thiện với môi
trường và giảm thiểu những tác động có hại cho môi trường của du lịch. Thuật ngữ
Ecotourism (DLST) được viết tắt từ nhóm chữ Ecologically responsible tourism,
nghĩa là du lịch ý thức sinh thái.
Cho đến nay, chúng ta đã rất cố gắng để xác định khái niệm DLST, nhưng
Eugenio Yunis (2002) cảm thấy những nỗ lực này là không cần thiết và vô ích vì có
nhiều hiểu biết du lịch liên quan đến thiên nhiên cũng được gọi là DLST. Do đó,
nói một cách cụ thể nhất thì chúng ta sẽ đồng ý với khái niệm “DLST là du lịch
được mở rộng hiểu biết về chúng”. Thực chất của khái niệm này là nhu cầu DLST
tác động lên khu vực tham quan một cách tối thiểu nhất. Do đó, sự hữu ích của khái
niệm này theo Liên đoàn Vườn Quốc Gia Châu Âu đã xác định du lịch bền vững
trong môi trường tự nhiên là: “Tất cả những loại hoạt động quản lý và phát triển du
lịch để duy trì sự thống nhất về kinh tế, xã hôi, môi trường và sự phát triển ổn định của
thiên nhiên để tạo ra nguồn tài nguyên văn hóa vĩnh cửu”.
Có thể nêu ra vài định nghĩa về DLST sau đây:
- Hội Du lịch Sinh thái (Ecotourism Society, 1992): DLST là sự du hành có mục
đích tới các khu vực tự nhiên để hiểu biết lịch sử tự nhiên và văn hóa của môi
trường, không làm cải biến tính hoàn chỉnh của HST, đồng thời tạo cơ hội phát
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
triển kinh tế bảo trợ nguồn tài nguyên tự nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng
địa phương.
- David Western: DLST là sự tạo nên và thỏa thuận sự khao khát thiên nhiên
là sư khai thác tiềm năng du lịch cho bảo tồn và phát triển, sự ngăn chặn các tác
động tiêu cực lên sinh thái văn hóa và thẩm mỹ.
- Theo Geoffrey Lipman, Chủ tịch Hội Du Lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC),
DLST thực chất được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng “E”: DLST là sự hướng về tự nhiên và bảo tồn chúng, cùng với
sự nhạy cảm ở nơi đến.
- Nghĩa hẹp “e”: được xem như là sự hướng tới tạo cho mỗi nhà lữ hành trở
thành người nhạy cảm sinh thái bằng cách tạo dựng một khuôn khổ môi trường vào
nhiều khía cạnh của sản phẩm du lịch và sự tiêu thụ nó. Ý nghĩa này có thể tạo
dựng một sự hỗ trợ tối ưu tới việc cải thiện môi trường, trong khi đó theo nghĩa
rộng hàm chỉ những nhà lữ hành nhạy cảm sinh thái, có lẽ với ý nghĩa sâu hơn của
du lịch xanh (green tourism).
1.1.2. Lợi ích kinh tế và xu hướng phát triển của du lịch sinh thái.
Tuy ngành DLST chỉ mới ra đời vào những năm 1990, bắt nguồn từ Châu
Phi, DLST đã nhanh chóng tràn qua Châu Mỹ, mở rộng ở Châu Âu và phát triển
mạnh ở Châu Á. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO),
doanh thu từ DLST chiếm từ 2-10 tỉ đô la Mỹ trong tổng số 55 tỉ đô la Mỹ của thị
trường du lịch dưới các loại hình tại các quốc gia đang phát triển, tức là tại các
nước mà công nghiệp hiện đại chưa xâm chiếm hết đất đai có cảnh quan tự nhiên.
Các chuyên gia DLST ước tính thị trường DLST từ nay sẽ tăng từ 12-15% trong
thập kỉ tới do có bốn nhân tố tác động đến xu hướng phát triển DLST sau đây:
(i) Tình hình căng thẳng trên thế giới giảm dần, dù có các tranh chấp
khác có tính địa phương hay chủng tộc.
(ii) Chi phí du lịch rẻ hơn trước.
(iii) Xuất hiện nhiều thị trường du lịch đa dạng.
(iv) Khách du lịch đựơc cung cấp thông tin tốt hơn và chính xác.
Theo nhận định của các WTO tại Châu Âu thì các nước phát triển thuộc
vùng nhiệt đới ở Châu Á là một thị trường thuận lợi nhất cho phát triển DLST. Các
nhà khoa học đã đánh giá Châu Á có môi trường sống phong phú nhất hành tinh
hiện nay. Ở đây có những HST rừng nhiệt đới độc đáo, ít có gây chết người hơn so
với các HST rừng ở Châu Phi và Nam Mỹ. Người ta cũng phát hiện ở vùng biển
nhiệt đới Châu Á có những bãi đá ngầm san hô tuyệt đẹp với đầy bí ẩn. Hơn nữa,
các nước Châu Á có một nền văn minh lâu đời hàng ngàn năm đến nay vẫn còn thể
hiện qua kiến trúc cổ xưa, tôn giáo trang nghiêm, một tập quán tôn trọng lễ giáo và
trang phục độc đáo đầy màu sắc, trong khi tại thế giới phương Tây mọi hình thức
trở nên máy móc và đơn điệu. Lãnh thổ Việt Nam là một bộ phận nhỏ bé của môi
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
trường tự nhiên Châu Á, nhưng lại có một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
và hấp dẫn khách du lịch như các cảnh quan di sản tự nhiên thế giới: quần thể vịnh
Hạ Long, động Phong Nha; các cảnh quan sinh thái rừng nhiệt đới cấp quốc gia như
Cúc Phương, Nam Cát Tiên, và cả những HST rạn san hô nhiệt đới kỳ thú. Ở
vùng ĐBSCL cũng có nhiều tiềm năng tài nguyên du lịch có giá trị khai thác DLST
như các vườn quốc gia Tràm Chim, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Phú Quốc, các
cảnh quan sinh thái hang động Mo So, Hang Tiền, Thạch Động, Đá Dựng, các
cảnh quan sinh thái đồi núi Cấm, Cô Tô, các HST rừng ngập mặn (Cà Mau) và
rừng tràm (Vồ Dơi, Lung Ngọc Hoàng, U Minh, Tràm Chim), các cảnh quan sinh
thái đảo và quần đảo (hòn Khoai, hòn Đá Bạc), các HST sân chim (Vàm Hồ, Gáo
Giồng, Bạc Liêu, Bằng Lăng, Trà Sư) vv.
1.1.3. Các điều kiện để phát triển và quản lí du lịch sinh thái bền vững.
Sự bền vững của quản lí và phát triển DLST là ưu tiên hàng đầu đối với các
chính phủ, các nhà chức trách ở địa phương hay vùng trung tâm, các hãng du lịch
và các hiệp hội doanh nghiệp của họ. Chúng ta hãy giành lấy cơ hội để khẳng định
rõ ràng quan niệm du lịch bền vững không thể không gắn liền với DLST.
WTO cho rằng tất cả mọi hoạt động du lịch đều phải được điều chỉnh về mặt
lễ hội, thương mại, hội nghị và hội thảo về an toàn sức khỏe và sự mạo hiểm của
bản thân DLST để nó phải đạt tính bền vững. Điều này có nghĩa là kế hoạch và sự
phát triển của cơ sở hạ tầng, hoạt động và việc tiếp thị nó phải tập trung vào các
mục tiêu về khả năng bền vững trong kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Do
đó phải đảm bảo rằng không có môi trường tự nhiên thì cũng không có kết cấu văn
hóa - xã hội của các chủ đầu tư sẽ bị giảm đi do sự lui tới của du khách du lịch;
ngược lại những người làm du lịch ở địa phương sẽ thu lợi từ du lịch, cả về kinh tế
lẫn văn hóa.
Sự bền vững nghĩa là các hãng du lịch cũng như là cộng đồng địa phương nơi
hoạt động sẽ thu được lợi về một mặt nào đó. Đối với DLST, sự bền vững là cấp
bách hơn cả so với những loại hình du lịch khác. Tuy nhiên, như chúng ta thấy từ
bất cứ loại hình du lịch nào khác, DLST không bền vững đã xảy ra ở nhiều vùng,
miền, quốc gia, gây nguy hiểm cho sự tồn tại của môi trường tự nhiên, nền tảng
của kinh doanh DLST sẽ bị giảm đi và nghiêm trọng hơn là làm cho hoạt động du
lịch mất giá trị.
Những nhân tố hay đặc điểm phẩm chất nào mà DLST cần có thể phát triển
bền vững trong thời gian dài? Những đặc điểm và điều kiện được xem là cơ bản
nhất có thể kể ra như sau (Eugenio Yunis (2002):
DLST phải tăng cường bảo tồn khu vực tự nhiên và phát triển bền vững của khu
vực xung quanh và cộng đồng.
DLST đòi hỏi phải có những chiến lược đặc thù, nguyên tắc và chính sách cho
mỗi quốc gia, vùng, khu vực. Nó không thể phát triển một cách vô tổ chức, vô kỉ
luật nếu muốn tồn tại bền vững trong thời gian dài.
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
DLST cần sư phối hợp tổ chức có hiệu quả và thực dụng giữa những đối tựơng
liên quan đến du lịch như sau: chính quyền địa phương, hãng du lịch, cá nhân và
nhân dân địa phương.
Qui hoạch DLST phải bao gồm các chỉ tiêu nhất định cho vùng lãnh thổ, gồm khu
bảo tồn và những vùng tác động vừa và nhẹ.
Qui hoạch tự nhiên và thiết kế các phương tiện, các khách sạn đặc trưng và
những phương tiện chuyển tin khác, nhà hàng và các trung tâm thông tin du lịch ở
các vườn quốc gia nên được nghiên cứu theo cách giảm thiểu những tác động
tiêu cực mà du khách có thể gây ra đối với môi trường tự nhiên và văn hóa, các
vật liệu xây dựng, kiểu kiến trúc nội thất và trang từ những nguồn năng lượng ít
gây ô nhiễm tại chỗ.
Tương tự, các phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc do du khách và
cả các công ty cung cấp dịch du lịch trong vùng DLST cũng phải ít gây tác động,
kể cả những trò chơi thể thao ồn ào hay những phương tiện gây ô nhiễm tại chỗ.
Hành động DLST trong các vườn quốc gia và những khu bảo tồn khác (như khu
khảo cổ hay nơi hành hương) phải tuyệt đối tuân thủ các qui định quản lí nghiêm
ngặt ở khu vực này.
Cơ chế tổ chức hợp pháp nên được thiết lập ở cấp quốc gia và địa phương để
thuận tiện và tăng hiệu quả của sự tham gia của cộng đồng địa phương trong tiến
trình qui hoạch, phát triển, quản lí và điều chỉnh DLST.
Phù hợp với những điều kiện trên, cơ chế tổ chức nên được thiết lập để có thể
cân đối thu nhập từ lượng khách DLST nhằm chia xẻ đối với cộng đồng địa
phương và vùng cư trú tạm thời trong vườn quốc gia để bảo tồn di sản tự nhiên.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng DLST là một ngành kinh doanh tốt, nó có thể sẽ
đảm bảo cho sự bền vững về kinh tế. Nói cách khác, nếu DLST không đem lại
lợi nhuận cho hãng du lịch thì hẳn nó sẽ không được đầu tư phát triển và cũng
không sinh lợi cho các chủ đầu tư. Như vậy, DLST sẽ là lĩnh vực văn hóa - sinh
thái nhạy cảm rất cao.
Tất cả những gì liên quan tới kinh doanh DLST, bao gồm bản thân các chủ đầu
tư, chính quyền địa phương và dĩ nhiên là có các doanh nhân phải ý thức về giá
trị của sự giảm nhẹ những tác động tiêu cực của hoạt động DLST. Những ảnh
hưởng này và cái giá của việc ngăn chặn chúng cần được đánh giá trước và bao
gồm cả những kết quả phân tích lợi nhuận của bất kỳ dự án DLST nào.
Việc tuân thủ những nguyên tắc du lịch nên được tăng cường và nghiêm hơn đối
với DLST điển hình, bao gồm giám sát và điều chỉnh bằng cuộc vận động nâng
cao ý thức, thông tin đầy đủ hơn cho khách DLST và đào tạo những nhà cung cấp
dịch vụ. Những hệ thống nguyên tắc này cần được khích lệ và kiểm tra thích
đáng.
Cần xem xét triển vọng của việc thiết lập một hệ thống chứng nhận cho hoạt
động và các tiện nghi theo phong cách DLST, ít nhất là ở cấp khu vực và cũng có
thể mở rộng trên qui mô toàn cầu để đảm bảo rằng chúng có đúng chuẩn với
những nguyên tắc và qui chế DLST.
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết để hoạt động DLST bền vững. Hội đồng
quản trị và giám đốc các công ty cũng như nhân viên và nhân dân địa phương cần
được đào tạo tổng quát và chuyên về các lĩnh vực DLST phù hợp với từng nhu cầu.
Ngoài ra, DLST cũng cần một đội ngũ hướng dẫn viên DLST có trình độ cao và
có thể sử dụng dân địa phương.
Khách DLST cần những thông tin chi tiết và chuyên sâu ngay cả trước và trong
chuyến du lịch của họ, việc cung cấp thông tin đầy đủ, tốt là một trong số những
nhân tố khác biệt về thực tiễn giữa DLST với du lịch truyền thống. Những loại
hình khác được dùng để cung cấp thông tin bao gồm giới thiệu sách hay bản đồ,
trung tâm khách hàng hay bảo tàng sinh thái (dùng kiến trúc và vật liệu truyền
thống, tại chỗ), các bảng chỉ dẫn bằng vật liệu thiên nhiên hay các chương trình
tiếp thị và dĩ nhiên là cả hướng dẫn viên.
Danh mục các mặt hàng, sách giới thiệu, hướng dẫn về DLST nên có thông tin
về kinh nghiệm cho du khách; nội dung về hoa cỏ, thực vật, địa chất, quặng mỏ,
và hệ sinh vật để được tham quan là cơ sở cho quảng cáo về DLST, thông tin
chính xác về các phương tiện của nơi lưu trú.
Giới thiệu những việc có thể làm và không được làm ở các điểm đến. Tất cả sẽ
được du khách chú ý và có thể họ cũng sẽ phân biệt được giữa người làm DLST
chính thống và những người làm du lịch khác để chọn lấy ưu thế của loại hình du
lịch này.
Cả những kênh tiếp thị và các phương tiện tăng cường các sản phẩm DLST cần
phù hợp với loại hình du lịch mà khách yêu cầu và các loại khách DLST. Về mặt
này, thực hiện kinh doanh phù hợp hơn với số đông khách như tất cả các tour trọn
gói, phần trả thêm quá nhiều cho một phòng một người và ngày không phù hợp
và giờ bay không hợp lí là không thỏa mãn.
Thêm vào đó, chúng ta sẽ cung cấp một số hướng dẫn cơ bản để đảm bảo du
lịch ở các VQG và các khu BTTN được bảo vệ và không tạo ra các tác động tiêu
cực.
Để phát triển và quản lí DLST bền vững, Eugenio Yunis (2002) nêu ra 7
điểm cơ bản sau đây:
1. Phân vùng: đây là cơ sở để xác định, trong tất cả những khu bảo tồn thiên
nhiên, các vùng có chức năng và mức sử dụng khác nhau. Du khách không được tự do đi
lại khắp nơi trong khu bảo tồn hay ít nhất là không phải tất cả du khách đều vào cùng một
lúc hay cùng một lượng như nhau.
2. Quản lí nhu cầu du lịch: Du lịch toàn cầu đòi hỏi vùng tự nhiên phải được quản
lí để tạo sự liên kết giữa các bộ phận khác nhau :
(i) Xác định tổng số khách tối đa có thể vào khu vực này mỗi ngày.
(ii) Có chính sách định giá phù hợp với đại đa số du khách.
(iii) Xác định chính sách tiếp thị, phân phối và tăng trưởng song song với chính
sách định giá và với số đông nhu cầu.
3. Thiết kế quản lí du lịch: thiết kế chương trình quản lí cơ sở hạ tầng cũng như
tiện nghi du lịch trong vùng, sử dụng những vật liệu có sẵn ở địa phương (thiết kế sinh
thái) trong tất cả các tòa nhà trong khu, hợp nhất tất cả các ứng dụng kỹ thuật như năng
Báo cáo khoa học Chủ nhiệm đề tài: Ths. GVC. Trần Văn Thành
lượng mặt trời, gió và sự chiếu sáng, vật liệu tái chế, rác hữu cơ tạo lối đi bộ và khu vực
sử dụng thường xuyên chịu tác động mạnh. Lập một hệ thống quản lí chất thải toàn diện.
4. Quản lí khách du lịch: thiết kế những tuyến du lịch trong khu để quản lí sự đi
lại của du khách, thiết kế thời gian và các chương trình kế tiếp nhau và thực hiện chúng
với những thông tin đặc biệt và bảng chỉ đường, thực hiện các qui tắc liên quan đến việc
sử dụng các phương tiện trong khu vực; tạo các lối vào và điểm dừng với thời gian biểu và
các hoạt động kế tiếp.
5. Giám sát thường xuyên các tác động: Lập bảng kiểm tra toàn diện với mục
đích kép:
(i) Chọn các loài có thể thu hút sự quan tâm của du khách nhất.
(ii) Cho phép kiểm kê theo giai đoạn số lượng loài. Theo qui tắc kiểm tra sinh
thái để đo những tác động từ du lịch, thiết lập hệ thống các tín hiệu và hệ
thống thu nhập thông tin tương tự.
6. Quản lí hành vi: thiết lập, phổ biến và đưa ra những qui tắc bắt buộc về hành
vi cho du khách. Lập mã hoạt đôïng cho những người thực hiện tour tiếp thị khu vực và cho
cả du khách. Giáo dục cộng đồng xung quanh, nhân viên khu bảo tồn và du khách về tầm
quan trọng của việc bảo tồn thiên nhiên nói chung và những loài bị đe doạ tuyệt chủng
nói riêng. Cung cấp thông tin phong phú cho du khách trước và trong khi họ đến tham
quan khu bảo tồn, bao gồm cả thông tin mô tả khu vực, nơi cư trú, những nguy hiểm và rủi
ro, những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng, “những điều nên làm và cấm làm” trong khu
vực,.
7. Chia lợi nhuận cho việc bảo tồn và cải thiện địa phương: Thiết lập cơ cấu tổ
chức để đảm bảo một phần lợi nhuận từ hoạt động du lịch trong khu bảo tồn được sử dụng
để tài đầu tư cho chính khu đó.
1.1.4. Tổng quan về nghiên cứu du lịch sinh thái.
Để xác định rõ vấn đề và phạm vi nghiên cứu của đề tài, dưới đây điểm qua
tình hình nghiên cứu về DLST.
1.1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.
Ở nước ngoài. Các chương trình nghiên cứu về DLST trên thế giới rất phổ
biến như các nước Châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á. Từ những năm 1990
trở lại đây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu loại hình DLST của Hội DLST
(1992, 1993); Chương