c1. Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư:
Đối với một số dự án đầu tư để thực hiện mục tiêu quan trọng có tác động tích cực tới phát triển kinh tế của nước ta như sản xuất điện nhập khẩu về Việt Nam, khai thác một số khoáng sản thay thế nhập khẩu phục vụ sản xuất chế biến trong nước, đề nghị được hưởng chính sách ưu đãi hỗ trợ về nguồn vốn, cụ thể:
- Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam-BIDV cho phép chủ đầu tư vay tối thiểu 30% tổng vốn đầu tư của dự án và cho phép miễn hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản, được hưởng lãi xuất ưu đãi. Chính phủ có thể đứng ra bảo lãnh vốn vay của doanh nghiệp.
- Các ngân hàng thương mại trong nước cho vay vốn đối với các dự án đầu tư tại một số nền kinh tế đặc biệt (Lào, Campuchia, LB Nga) trong các lĩnh vực nêu trên và được phép cho vay vượt 15% vốn điều lệ của Ngân hàng Thương mại.
- Trong một số trường hợp đặc biệt, nhà nước có thể góp vốn cùng với doanh nghiệp để thực hiện dự án, chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp.
c2. Chính sách ưu đãi về thuế:
Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư trong một số lĩnh vực đặc thù (sản xuất điện nhập khẩu về Việt Nam, khai thác một số khoáng sản thay thế nhập khẩu, phục vụ sản xuất chế biến trong nước), cụ thể cho miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận chuyển về nước đã được nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại Lào.
c3. Về thực hiện các hiệp định, thỏa thuận song phương, đa phương:.
Sớm triển khai và thực hiện thống nhất các nội dung của các hiệp định, thỏa thuận song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước, trong đó có Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như Hiệp định tránh đánh thuế trùng của Việt Nam với các nước để làm cơ sở cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp mỗi nước.
c4. Về đào tạo lao động:
Lực lượng lao động tại một số nước sở tại (Lào và Campuchia) còn hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam bắt buộc phải đưa lao động từ Việt Nam sang với số lượng lớn để làm việc hoặc đưa các lao động người Lào về Việt Nam để đào tạo. Do đó, kiến nghị Chính phủ có cơ chế, chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sang Lào, Campuchia đào tạo các lao động người Lào, Campuchia hoặc đào tạo các lao động Việt Nam sang làm việc tại Lào, Campuchia.
Các khoản viện trợ, hỗ trợ của Việt Nam cho một số nước (Lào, Campuchia) cần gắn chặt và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư ví dụ như hỗ trợ đào tạo nghề gắn với các lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang Lào, Campuchia; viện trợ đào tạo các cán bộ cấp xã của Lào, Campuchia tại Việt Nam.
65 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
Khái niệm và các nguồn hình thành nguồn vốn FDI
Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi công dân của một nước ( nước đầu tư ) nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế ở một nước khác ( nước chủ nhà hay nước nhận đầu tư ).
Các nguồn hình thành vốn FDI
Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng suất cận biên cao mới được các doanh nghiệp tự sản xuất mà cũng có những hoạt động quan trọng, là sống còn của doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dư hoạt động đó cho năng suất cận biên thấp.
Chu kỳ sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện(giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên.Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng...ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này!
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
Khai thác chuyên giao và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào.
Ưu điểm:
+Với nước tiếp nhận: giải quyết được tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghê, tạo thêm đuợc mối quan hệ trong hợp tác kinh doanh, được nắm quyền điều hàng dự án.
+Với nước đầu tư: chia sẻ đuợc sự rủi ro trong đầu tư, tận dụng đựoc hệ thống phân phối có sẵn , điều hành, phân bổ của nước tiếp nhận trong quá trình đầu tư. Xâm nhập vào thị truờng nước sở tại đễ dàng hơn mà không mất thời gian thăm dò, nghiên cứu.
Nhược điểm
+Với nước tiếp nhận: khó thu hút vốn đầu tư,chỉ thực hiện được ở một số lĩnh vực sinh lời.
+Với nước đầu tư: không được trực tiếp điều hành dự án.
Công ty liên doanh – Xí nghiệp liên doanh
Xí nghiệp hay công ty liên doanh được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầu tư và một bên là các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. Một xí nghiệp liên doanh có thể gồm hai hoặc nhiều bên tham gia liên doanh.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư: trước hết giải quyết đưoc tình trạng thiếu vốn, đổi mới công nghệ,nâng cao được trình độ của của người lao động , học hỏi được cách thức quản lý làm việc chuyên nghiệp.
+Với nước đầu tư: chia sẻ được rủi ro,tận dụng được hệ thông phân phối có sẵn,thâm nhập được vào thị trường truyền thông và không mất thời gian chi phí cho viêc nghiên cứu thị trường tại nước sở tại.
Nhựơc điểm
Cả hai bên đều gặp phải những rắc rối khó khăn trong quản lý như mất nhiều thời gian để thương thảo,bàn luận,khác biệt về văn hoá nhìn nhận trong đầu tư nên dễ xuất hiện mâu thuẫn trong quản lý.
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thay đổi nhân sự ở công ty mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của liên doanh, đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu vì vậy liên doanh nhiều khi phai chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.
+Với nhà đầu tư:không chủ động được trong việc điều hành,dễ bị mất cơ hội kinh doanh.
Công ty hay xí nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đây là hình thức các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được lợi nhuận từ doanh nghiệp(tiền thuê đất,thuế) tiếp cận đựơc thị trường nước ngoài.
+Với nhà đầu tư nước ngoài:tận dụng được tài nguyên của nước sở tại, chủ động trong việc quản lý, điều hành.
Nhược điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp thu đựơc kinh nghiệm quản lý,công nghệ để nâng cao được trình độ của cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp trong nước.Bị chia sẻ thị truờng của nước mình,bị tận dụng nguồn tài nguyên.
+Với nhà đầu tư nước ngoài:phải chịu hoàn toàn mọi rủi ro trong quá trình đầu tư,mất nhiều thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị truơng,khó xâm nhập vào nhiều lĩnh vực thị trưòng trong nước lớn.
Các hình thức khác:
Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực hiện những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T). Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Ưu điểm
+Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được vốn đầu tư vào nhưng dự án hạ tầng đòi vốn đầu tư lớn,giảm sức ép cho ngân sách nhà nước,nâng cao được các công trình hạ tầng trong nước.
+Với nhà đầu tu nước ngoài:hiệu quả sử dụng vốn được đảm bảo,chủ động quản lý, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận.
Nhược điểm:
+Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp cận khả năng quản lý và ra soát công trình.Nhà nước cung chịu rủi ro ngoài kiểm soat của nhà đầu tư.
+Với nhà đầu tư nước ngoài: mất nhiều thời gian trong việc đàm phán ,thực hiện hợp đồng.
Mối quan hệ giữa công ty đa quốc gia và sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các công ty đa quốc gia là các công ty mà lĩnh vực hoạt động của nó vượt ra khỏi khuôn khổ một quốc gia nào đó để mở rộng hoạt động ở các quốc gia khác trên thế giới. Hầu hết các công ty đa quốc gia đều hướng đến việc phát triển kinh doanh trên thị trường thế giới. Khi nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ của một quốc gia trở nên hạn chế, việc sản xuất kinh doanh ở những nước khác hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận ròng hơn là nước sở tại, các nhà đầu tư ở đây là các công ty đa quốc gia sẽ tìm đến những vùng đất mới có nguồn lực và thị trường tiêu thụ màu mỡ hơn. Điều này gây nên một sự dịch chuyển tư bản mạnh mẽ từ quốc gia này sang quốc gia khác, hình thành nên đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy có thể nói chính sự quốc tế hoá hoạt động kinh doanh của các công ty đa quốc gia là nguyên nhân cơ bản tác động đến sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên, cùng với quá trình đầu tư nước ngoài để tìm kiếm siêu lợi nhuận, các công ty đa quốc gia cũng đối đầu với nguy cơ mới: rủi ro. Sự khác biệt về luật pháp, chính sách kinh tế, sự biến động và rủi ro của thị trường các nước nhận đầu tư sẽ hình thành nên những rủi ro mà các công ty đa quốc gia phải quan tâm khi quyết định đầu tư vào một quốc gia khác.
Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của thương mại quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát triển của thương mại quốc tế. Những tác động này ảnh hưởng không chỉ đến những nước nhận đầu tư mà ngay cả những nước xuất khẩu tư bản (đầu tư). Những tác động đó bao gồm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu hút nguồn nhu cầu mới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp thâm nhập vào những thị trường nơi có thể đạt được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng năng suất
Sử dụng yếu tố nước ngoài trong sản xuất
Sử dụng nguyên vật liệu nước ngoài.
Sử dụng công nghệ nước ngoài.
Khai thác các thuận lợi về độc quyền
Đa dạng hoá ở tầm cỡ quốc tế.
Phản ứng với giá trị thay đối của ngoại tệ
Phản ứng với các kiềm hãm thương mại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những thuận lợi về mặt chính trị
Lợi ích và rủi ro của vốn FDI
Lợi ích của vốn FDI
Về mặt kinh tế
Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn lực):
Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa được phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta cần có vốn và công nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ được du nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở các nước đang phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nước chuyển sang đi vay các nước khác, những luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan trọng cho việc hình thành vốn của một vài nước đang phát triển. Giữa năm 1979 và năm 1981, luồng vốn đầu tư trực tiếp chiếm khoảng 25% trong tổng số vốn cố định được đầu tư của Singapore; 11% ở Malaixia; gần 5% ở Chile và Philipines; khoảng 15% tại Brazil, Indonesia, Mehico, còn ở Hàn Quốc, Ấn Độ và Nigeria không đáng kể. Tuy nhiên, những con số này chưa phản ánh đủ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài vào tổng số vốn được đầu tư. Lợi nhuận tái đầu tư đã không được kể đến ở một số nước đang phát triển; ngoài ra, quĩ khấu hao của các doanh nghiệp FDI đã trang trải cho một phần cơ bản của các khoản chi tiêu trong tổng số vốn của các nước này, mà lại không đưa vào định nghĩa FDI.
Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho các luồng vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có những tác động đến sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư, cũng như những khác biệt trong các yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng vốn chảy vào. Các nước có thị trường nhỏ bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu hàng công nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có những qui chế tự do và những ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó nói chung cũng không có khả năng vay nợ theo các điều kiện thương mại thông thường, và chủ yếu dựa vào kết quả ưu đãi. Kết quả là những khả năng thay thế giữa tín dụng thương mại nước ngoài và FDI chủ yếu có liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc có khu vực công nghiệp khá phát triển. Các nước đã có được một số lượng lớn các nguồn FDI nói chung cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu tương lai của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể tác động tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh hiện hữu thuộc các công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số lượng vay từ các nguồn trong nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với vay nước ngoài, FDI có xu hướng tập trung nhiều hơn tại một số ít nước.
Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006.
Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước:
Do có các nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào các thị trường vốn có các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, nhưng ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi ưu thế về nguồn lực của nhà đầu tư nước ngoài trội hơn hẳn. Chính vì vậy các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ trước từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó. Đó chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản xuất trong nước, không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự nó làm mình mạnh lên để sống trong cơ chế đó.
Tiếp cận với thị trường nước ngoài:
Nếu như trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tế mới không phải trong nước. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có, và họ cũng đang cần thì ở nơi đối tác lại có, do vậy cần phải tăng cường hợp tác sẽ có nhiều sản phẩm được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Từ các việc trao đổi thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư giữa các nước. Như vậy quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau và cùng phát triển.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế:
Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng tích cực hơn. Nó thường tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin. Nếu là một nước nông nghiệp thì bây giờ trong cơ cấu kinh tế các ngành đòi hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng và sức đóng góp cho Ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra về cơ cấu lãnh thổ, nó có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa khai phá vào quá trình sản xuất và dịch vụ, và làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Về mặt xã hội
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và tăng thu nhập quốc dân.
Góp phần giải quyết công ăn việc làm, đẩy lùi nạn thất nghiệp, từ đó góp phần nâng cao đời sống của người dân trong các nước kém hoặc đang phát triển.
Thông qua việc tiếp nhận kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến, đầu tư trực tiếp sẽ giúp cho các nước đang phát triển đuổi kịp trình độ phát triển cao của thế giới.
Đầu tư trực tiếp cũng góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng của nền kinh tế mà nguồn vốn trong các nước đang phát triển không đủ khả năng cung ứng.
Rủi ro của vốn FDI
Về mặt kinh tế:
Rủi ro chuyển giá :
Hiện tượng chuyển giá , không chỉ làm ngân sách quốc gia bị thất thu một số tiền lớn, mà nó còn có thể gây ra những hậu quả tiêu cực cho cả nền kinh tế
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company) trên toàn cầu.
Nói nôm na, chuyển giá là việc dùng một số phương thức khác nhau để trốn tránh được các khoản thuế, phí thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, để rồi chuyển lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài.
- Ở góc độ vĩ mô, vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI có thể gây thất thoát cho nguồn thu ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa. - Còn xét ở cấp độ vi mô, thủ đoạn này sẽ tạo ra bất công trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa. Chẳng hạn, một doanh nghiệp FDI sử dụng công cụ chuyển giá để tối ưu hóa lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài trong khi đó báo cáo thua lỗ tại quốc gia đang kinh doanh để khỏi đóng thuế và nhiều trường hợp được hoàn thuế, như vậy công ty FDI đó sẽ có nhiều nguồn lực về tài chính hơn để đầu tư vào các hoạt động tiếp thị, quảng bá.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi