Các tác giả đưa ra một sự giải thích mang tính lý thuy ết của hai hiện
tượng quốc tế: xu hướng vận động ngược chu kỳ trong xu ất kh ẩu ròng và
khuynh hướng của cán cân thương mại không quan hệ với những thay dổi trong
hiện tại và tương lai của tỷ lệ mậu dịch, nhưng lại có quan hệ với những thay
đổi trong quá khứ của chỉ số này.
Các tác giả cũng cho rằng quan điểm về sự cân bằng tổng thể là tất yếu.
Mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch phụ thu ộc vảo nguồn
gốc của sự thay đổi. Các tác giả đã chứng minh những đặc trưng của lý thuy ết
trong nền kinh tế vì cú sốc chi tiêu của chính phủ hơn là vì năng suất. Trong
trường hợp này, mối tương quan chéo giữa các y ếu tố xuất kh ẩu ròng và tỷ lệ
mậu dịch là hình tháp hơn là hình chữ S. Sự khác biệt giữa mối quan hệ chéo
giữa các y ếu tố cú sốc năng suất và chi tiêu chính phủ làm rõ rằng không có
một cấu quan hệ đơn giản trong nền kinh tế của chúng ta giữa cán cân thanh
toán và đáp số của mậu dịch và gợi ý rằng không thể mô tả quan hệ giữa
thương mại và giá mà không đ ề cập rõ nguyên nhân của sự biến động.
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2104 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Động lực cân bằng thương mại và tỷ lệ mậu dịch - Đường cong J, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. Hố Chí Minh
------------
Môn: Tài chính quốc tế
Đề tài:
ĐỘNG LỰC CÂN BẰNG THƯƠNG MẠI
VÀ TỶ LỆ MẬU DỊCH - ĐƯỜNG CONG J?
GVHD: GS. TS. TRẦN NGỌC THƠ
Thực hiện: Nhóm 15
Lớp: Ngân hàng Đêm 1 – Khóa 22
Danh sách nhóm
1. Nguyễn Thị Nhật Vy
2. Vương Thị Thùy Linh
3. Phạm Thành Đạt 0903.100721
4. Nguyễn Thanh Phong
TPHCM, tháng 07 năm 2013.
2
Mục lục
Tóm tắt (Abstract) ...................................................................................................... 3
1. GIỚI THIỆU .......................................................................................................... 3
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................... 5
3. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................. 7
3.1. Nghiên cứu những biến động mang tính chu kỳ của xuất khẩu ròng, và
mối tương quan giữa xuất khẩu ròng và đáp số của mậu dịch của 11 quốc gia
phát triển. ................................................................................................................ 7
3.2. Nghiên cứu mô tả một lý thuyết kinh tế mà ở đó hai quốc gia có những
sản phẩm tạo ra khác nhau về vốn và lao động, và sẽ đối mặt với cú sốc năng
suốt và chi tiêu Chính phủ ..................................................................................... 13
3.3. Các tác giả thảo luận về sự lựa chọn các giá trị của tham số và phương
pháp tính toán lộ trính cân bắng của xuất khẩu ròng, đáp số của mậu dịch, và
những nhân tố khác ............................................................................................... 16
3.4. Bài nghiên cứu đưa ra tiêu chuẩn của mô hình, bao gồm sự tương quan
giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch ................................................................... 18
3.5. Hai thí nghiệm đặc biệt: Nền kinh tế không có vốn và đầu tư ; Và nền
kinh tế chỉ có chi tiêu của Chính phủ ..................................................................... 28
3.6. Phần nghiên cứu thêm một số đặc trưng của lý thuyết, bao gồm hai phần
mà các tác giả cho là bất thường............................................................................ 30
4. KẾT LUẬN .......................................................................................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 34
3
ĐỘNG LỰC CÂN BẰNG THƯƠNG MẠI VÀ TỶ LỆ
MẬU DỊCH: LÝ THUYẾT ĐƯỜNG CONG J
Tóm tắt (Abstract)
Các tác giả đưa ra một sự giải thích mang tính lý thuyết của hai hiện
tượng quốc tế: xu hướng vận động ngược chu kỳ trong xuất khẩu ròng và
khuynh hướng của cán cân thương mại không quan hệ với những thay dổi trong
hiện tại và tương lai của tỷ lệ mậu dịch, nhưng lại có quan hệ với những thay
đổi trong quá khứ của chỉ số này.
Các tác giả cũng cho rằng quan điểm về sự cân bằng tổng thể là tất yếu.
Mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch phụ thuộc vảo nguồn
gốc của sự thay đổi. Các tác giả đã chứng minh những đặc trưng của lý thuyết
trong nền kinh tế vì cú sốc chi tiêu của chính phủ hơn là vì năng suất. Trong
trường hợp này, mối tương quan chéo giữa các yếu tố xuất khẩu ròng và tỷ lệ
mậu dịch là hình tháp hơn là hình chữ S. Sự khác biệt giữa mối quan hệ chéo
giữa các yếu tố cú sốc năng suất và chi tiêu chính phủ làm rõ rằng không có
một cấu quan hệ đơn giản trong nền kinh tế của chúng ta giữa cán cân thanh
toán và đáp số của mậu dịch và gợi ý rằng không thể mô tả quan hệ giữa
thương mại và giá mà không đề cập rõ nguyên nhân của sự biến động.
1. GIỚI THIỆU
Các tác giả đưa ra một sự giải thích mang tính lý thuyết của hai hiện
tượng quốc tế: sự vận động ngược chu kỳ của xuất khẩu ròng và khuynh hướng
của cán cân thương mại không quan hệ với những thay đổi trong hiện tại và
tương lai của tỷ lệ mậu dịch, nhưng lại có quan hệ với những thay đổi trong quá
khứ của chỉ số này. Các tác giả gọi hình dạng bất cân xứng của tương quan
chéo giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch là đường cong S, vì những biến đổi
này giống hình chữ S nằm ngang. Đây chính là tiền thân của đường cong J.
4
Mục tiêu của bài nghiên cứu là cung cấp một giải thích cân bằng chung
của những thuộc tính này. Trong nền kinh tế của chúng ta, hai quốc gia sẽ sản
xuất những hàng hóa mang tính không thể thay thế một cách hoàn hảo hoàn
hảo với vốn và lao động, và sự biến động bắt nguồn từ những cú sốc về tổng
năng suất và việc chi tiêu của chính phủ vào hàng hóa và dịch vụ. Các tác giả
thấy những yếu tố hợp lý của lý thuyết kinh tế này phát triển từ tính không theo
chu kỳ của thương mại kết hợp với đường cong S. Phản ứng của việc biến động
năng suất là câu trả lời trực tiếp cho cả hai đặc tính trên. Một thuận lợi của việc
biến động năng suất trong nước là có thể dẫn đến một sự tăng trong sản xuất
trong nước, sự sụt giảm của giá thành có liên quan, và sự suy giảm trong tỷ lệ
mậu dịch.
Các tác giả cho rằng các quan điểm về cân bằng chung là điều cần
thiết, điều đó nghĩa là sự tương quan giữa thương mại và giá cả tương đối phụ
thuộc rất nhiều vào nguồn gốc của sự biến động..Trong nền kinh tế chuẩn mà
chúng ta xem xét thì biến động được điều khiển bởi cú sốc năng suất và chi tiêu
của chính phủ. Đây là hai biến độc lập tác động tới tỷ lệ mậu dịch và cán cân
thương mại.
Trước hết là cú sốc năng suất, khi có sự thuận lợi trong cú sốc năng
suất,sản lượng trong nước tăng và do đó làm giảm giá tương đối của nó dẫn tới
làm tăng tỷ lệ mậu dịch để từ đó ảnh hưởng tới cán cân thương mại. Đối với cú
sốc năng suất, kèm theo sau một cú sốc năng suất là sự bùng nổ đầu tư, điều
này làm cho tổng đầu tư và tiêu dùng tăng nhiều hơn sản lượng tăng do vậy làm
cho xuất khẩu ròng bị xấu đi. Điều này có thể giải thích như sau: trong thời kỳ
bùng nổ kinh tế, sản lượng tăng , thu nhập của người dân cũng tăng lên và do
đó họ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn và đầu tư tăng. Tiêu dùng và đầu tư
tăng nhiều hơn sản lượng sẽ hấp thụ sản lượng tăng trong nước và tăng nhập
khẩu. Điều này sẽ làm cho xuất khẩu ròng xấu đi.
Trong nền kinh tế chỉ có cú sốc chi tiêu của chính phủ chúng ta nhận
thấy hàm tương quan chéo giữa cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch là hình
tháp. Điều này là do không có sự bùng nổ đầu tư theo sau một cú sốc chi tiêu
của chính phủ. Chi tiêu chính phủ tăng sẽ làm cho sản lượng tăng nhiều hơn và
5
từ đó làm cho xuất khẩu ròng được cải thiện . Tức là chúng không có hình dạng
chữ S như chúng ta đã nhận thấy khi nghiên cứu ở 11 nước phát triển và trong
mô hình nền kinh tế chuẩn của chúng ta. Như vậy tương quan giữa cán cân
thương mại và tỷ lệ mậu dịch là tương quan cùng chiều. Tương tự như vậy
trong nền kinh tế không có vốn , cán cân thương mại chỉ đơn giản là một sự
phản ánh của biến động sản lượng và tiêu dùng đồng nhất thì một cú sốc lên
năng suất , sản lượng tăng thì tiêu dùng tăng song độ lệch chuẩn của tiêu dùng
nhỏ hơn so với sản lượng điều này làm cho cán cân thương mại cải thiện. Khi
đó đường biểu diễn tương quan giữa cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch là
hình tháp giống như trong trường hợp nền kinh tế chỉ có cú sốc chi tiêu của
chính phủ.
Như vậy trong ngắn hạn, nền kinh tế tạo ra một đường cong chữ S khi
vốn hình thành là một phần của cơ chế lan truyền và tạo ra biến động được điều
khiển bởi các cú sốc năng suất. Muốn xác định được mối tương quan giữa xuất
khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch, cần phải biết được động lực tạo ra nó và sự phối
hợp giữa các động lực như thế nào để đem ra dự báo hợp lý.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và bối cảnh nghiên cứu: Số liệu thống kê về tình hình thương
mại hàng quý sau chiến tranh cho 11 nước phát triển Australia (1960-1990), Áo
(1964-1990), Canada (1955-1990), Phần Lan (1975-1990), Pháp (1970-1990),
Đức (1968-1960), Ý (1970-1990), Nhật Bản (1955-1990), Thụy Điển (1970-
1990), Vương quốc Anh (1955-1990), Hoa Kỳ (1950-1990).
Qui trình nghiên cứu
Mô tả về dữ liệu hang quý sau chiến tranh, bao gồm các hành vi có tính
chu kỳ của xuất khẩu ròng và mối tương quan giữa xuất khẩu ròng và các điều
khoản của thương mại, trong 11 nước phát triển
Mô tả một nền kinh tế lý thuyết với hai nước sản xuất hàng hoá có vốn
đầu tư và lao động khác nhau cái này tác động đến năng suất và chi tiêu của
chính phủ
6
Thảo luận về việc lựa chọn các giá trị tham số và phương pháp tính toán
quỹ đạo thới gian cân bằng xuất khẩu ròng, , tỷ lệ mậu dịch, và các biến khác
Các mối tương quan giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch
Thử nghiệm hai nền kinh tế không có vốn và đầu tư và nền kinh tế mà
không có những tác động đến mua sắm của chính phủ
Một số tính năng bổ sung về lý thuyết, bao gồm cả hai mà chúng ta cho
là không bình thường : thuộc tình mà ở đó có một sự khác biệt đáng kể giữa lý
thuyết và dữ liệu
Định nghĩa chỉ tiêu lâm sàng
Tỷ lệ mậu dịch, kí hiệu p, là giá tương đối của hàng nhập khẩu đối với
xuất khẩu, sử dụng chỉ số giá có loại trừ lạm phát từ thu nhập quốc gia và các
số liệu sản lượng. Định nghĩa này là nghịch đảo của định nghĩa được sử dụng
bởi các lý thuyết thương mại nhưng tương ứng với quy ước ứng dụng trong
kinh tế vĩ mô quốc tế với tỷ giá thực. Vì các tài khoản bao gồm thương mại
dịch vụ cũng như hàng hóa nên giá tính tương tự.
Cán cân thương mại, kí hiệu nx, như tỷ lệ xuất khẩu ròng với sản lượng,
với việc cả hai tính theo giá hiện hành, như báo cáo về thu nhập quốc gia và các
số liệu sản lượng.
Sản lượng thực tế là GNP hoặc GDP theo giá cố định và được kí hiệu là
y. Thống kê cho p và y áp dụng logarit của các biến.
Phân tích dữ liệu: Trong suốt bài viết, các đặc tính của cả dữ liệu chuỗi
thời gian kinh tế quốc tế lẫn lý thuyết quy ước các biến đã được sử dụng theo
phương pháp của Hodrick và Edward C. Prescott (1980), bằng cách sử dụng
một tham số đã xử lý của 1,600. Các đặc tính của cách xử lý này được mô tả
chi tiết một số bằng John Hassleretal, (1992) và Robert G.King và Sergio
Rebelo T. (1989). Việc xử lý là một cách để chia tách biến động ngắn hạn từ
các biến động dài hạn trong các biến đang được nghiên cứu. Mặc dù các thuộc
7
tính của các biến được xử lý phụ thuộc vào cách xử lý, hầu hết các thuộc tính
chú ý đến nghiên cứu cho một số các cách xử lý khác phổ biến khác.
3. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nghiên cứu những biến động mang tính chu kỳ của xuất
khẩu ròng, và mối tương quan giữa xuất khẩu ròng và đáp số
của mậu dịch của 11 quốc gia phát triển.
Trong bảng 1, các tác giả báo cáo một số đặc tính nổi bật của sự biến
động của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch.
Bảng 1 - Giá trị trước chiến tranh của xuất khẩu ròng, tài sản thực và tỷ giá thương mại
trong 11 nước phát triển
Độ lệch chuẩn (%) Tự tương quan Tương quan
Quốc gia nx y p nx y p (nx,y) (nx,p) (y,p)
Úc 1.36 1.53 5.25 0.74 0.65 0.82 -0.19 -0.09 -0.27
(0.15) (0.16) (0.70) (0.18) (0.19) (0.23) (0.17) (0.11) (0.11)
Áo 1.11 1.20 1.63 0.29 0.60 0.50 -0.44 -0.16 0.13
(0.09) (0.13) (0.20) (0.12) (0.18) (0.15) (0.12) (0.12) (0.11)
Canada 0.79 1.52 2.44 0.59 0.76 0.85 -0.42 0.04 -0.10
(0.06) (0.18) (0.35) (0.13) (0.22) (0.25) (0.19) (0.08) (0.10)
Phần Lan 1.75 1.62 1.96 0.40 0.56 0.73 -0.60 -0.46 0.17
(0.19) (0.24) (0.23) (0.21) (0.22) (0.20) (0.24) (0.11) (0.10)
Pháp 0.83 0.91 3.54 0.71 0.76 0.75 -0.29 -0.50 -0.12
(0.10) (0.14) (0.54) (0.19) (0.27) (0.21) (0.22) (0.22) (0.15)
Đức 0.80 1.50 2.64 0.60 0.69 0.86 -0.17 0.00 -0.13
(0.08) (0.19) (0.26) (0.19) (0.23) (0.18) (0.13) (0.16) (0.10)
Ý 1.34 1.69 3.52 0.80 0.85 0.79 -0.68 -0.66 0.38
8
(0.19) (0.28) (0.40) (0.26) (0.29) (0.19) (0.28) (0.21) (0.21)
Nhật 1.01 1.68 5.86 0.81 0.74 0.88 -0.18 -0.47 -0.12
(0.10) (0.16) (0.86) (0.17) (0.17) (0.27) (0.12) (0.13) (0.16)
Thuỵ Sỹ 1.33 1.93 2.92 0.90 0.90 0.88 -0.68 -0.61 0.40
(0.23) (0.38) (0.32) (0.32) (0.36) (0.20) (0.29) (0.19) (0.19)
Anh 1.06 1.47 2.66 0.67 0.56 0.75 -0.23 -0.54 0.19
(0.13) (0.15) (0.47) (0.21) (0.15) (0.32) (0.08) (0.27) (0.07)
Mỹ 0.45 1.83 2.92 0.80 0.82 0.80 -0.22 0.27 0.03
(0.04) (0.17) (0.42) (0.14) (0.16) (0.24) (0.14) (0.11) (0.15)
Trung bình 1.06 1.53 2.92 0.71 0.74 0.80 -0.29 -0.46 0.03
Chú thích: Dữ liệu hàng quý từ Trương mục quốc gia hàng quý của Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế. Những số trong ngoặc đơn là những sai số chuẩn Newey-West.
Những biến số là tỷ lệ của xuất khẩu ròng chia cho sản lượng (nx), hàm Logarit của
sản lượng thực (y), và hàm logarit của tỷ lệ chỉ số giá nhập khẩu trên tỷ số giá xuất
khẩu (p). Tất cả số liệu thống kê tham khảo từ những biến chọn lọc của Hodrick-
Prescott (1980). Những thời kỳ mẫu như sau: Úc, 1960:1-1990:1; Áo, 1964:1-1990:1;
Canada, 1955:1-1990:1; Phần Lan, 1975:1-1990:1; Pháp, 1970:1-1990:1; Đức,
1968:1-1990:1; Ý, 1970:1-1990:1; Nhật, 1955:1-1990:1; Thuỵ Sĩ, 1970:1-1990:1;
Anh, 1955:1-1990:1; Mỹ, 1950:1-1990:2.
Đầu tiên là những sự lệch hướng tiêu chuẩn của xuất khẩu ròng, tỷ lệ
mậu dịch và sản lượng. Có một sự khá đồng nhất tồn tại giữa những quốc gia
trong số liệu thống kê này. Cụ thể là trong những tham số thương mại. Những
lệch hướng tiêu chuẩn của tỷ số xuất khẩu ròng và sản lượng chạy từ 0.45% ở
Mỹ tới 1.75% ở Phần Lan. Số trung bình của mẫu là 1.06%.Lệch hướng tiêu
chuẩn của tỷ lệ mậu dịch thì cao hơn, từ 1.63 ở Austria đến 5.68 ở Nhật, số
trung bình là 2.92
Thứ hai, cả cán cân thương mại và đáp án mậu dịch thì ổn định cao. Sự
tự tương quan của xuất khẩu ròng từ 0.29 ở Austria đến 0.9 ở Thụy Sĩ., số trung
bình là 0.71. Sự tự tương quan của đáp án mậu dịch từ 0.5 ở Austria đến 0.88 ở
Nhật và Thụy Sĩ, với số trung bình là 0.80.
9
Thứ ba, tham số xuất khẩu ròng không đi theo một chu kỳ ở tất cả các
nước trong mẫu nghiên cứu. Đặc trưng này đã được lưu ý bởi Keith Blackburn
và Morten Ravn(1991) : Jean – Pierre Danthine và john B. Donaldson(1993),
và sự tuyệt đối trong mối quan hệ giữa nhập khẩu và thu nhập trong hầu hết các
nền kinh tế học vĩ mô.
Thứ tư, mối quan hệ đồng thời giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch
biến đổi giữa các quốc gia cách nào đó là phủ định hơn là khẳng định. Ở Phần
Lan, Pháp, Ý, Nhật, Thụy Điển, và Mỹ, hệ số tương quan là thấp hơn -0.4. Mỹ
là nước duy nhất trong mẫu có tương quan khẳng định. Enrique G.
Mendoza(1990) cung cấp bằng chứng cho những quốc gia bổ sung tần số theo
năm.
Tuy nhiên, Sự tương quan đồng thời giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu
dịch bỏ qua mối quan hệ biến động qua lại của những tham số này, đã được
nhắc đến ở những bài nghiên cứu khác. Trong hình 1, các tác giả đã vẽ mối
quan hệ chéo cho hai yếu tố này, trò chơi thời hạn thanh toán( thu sớm và trả
trễ) lên đến 2 năm: sự tương quan giữa pt và nxt+k, với k -8 8 quý. Nhân tố
này là một phủ định điển hình về giá trị âm của k( phần bên trái của trục nằm
ngang) nhưng lại dương khi k có giá trị giữa 2 và 4.
Sự bất cân xứng này của sự tương quan chéo không xuất hiện như là kết
quả của mẫu sàn lọc cũng như chưa sàn lọc. Với liên hệ với mẫu đã sàn lọc, các
tác giả đã tìm ra rằng những mẫu giống nhau xuất hiện nếu sử dụng tỷ số không
được sàn lọc của xuất khẩu ròng với sản lượng và sự khác nhau hàng năm của
tỷ lệ mậu dịch. Với liên hệ với mẫu chưa sàn lọc( sample period), trong hình 2,
các tác giả báo cáo mối quan hệ chéo trong giai đoạn trước và sau 1972 cho 4
quốc gia mà các tác giả có dữ liệu trở về năm 1955. Nhật và Anh có đồ thị
giống nhau trong cả hai giai đoạn Bretton Woods(1955-19272) và giai đoạn tỷ
giá thả nổi(1972-1990). Canada cho thấy một chút quan hệ giũa hai tham số,
với bất kỳ trò chơi thời hạn thanh toán trong cả hai giai đoạn. Đối với Mỹ, mối
tương quan chéo trong giai đoạn đầu thì giống Nhật và Anh, cũng như các quốc
gia khác trong hình một.
1 0
Trong giai đoạn này bên trái giá trị k=0 thì nước Mỹ không có khác biệt
đáng kể so với những nước khác hơn là bên phải. Nhưng nước Mỹ, ở giai đoạn
sau lại cho thấy sự khác biệt so với mẫu. Nếu chúng ta tiếp tục phân chia dữ
liệu-1972 vào những năm 1970-1980, các tác giả thấy rằng sự thay đổi trong
thương mại và giá của Mỹ liên hệ với hai thập kỉ này:không thập kỉ nào có đồ
thị về mối tương quan chéo giống như giai đoạn Bretton Woods ở Mỹ, Anh vá
Nhật , hay bất kỳ quốc gia nào trong hình 1
1 1
Hình 1: Hàm tương quan chéo của CCTM và tỷ giá thương mại ở 11 quốc gia.
1 2
Hình 2: Hàm tương quan chéo của CCTM và Tỷ giá thương mại trước và sau năm
1972
Một lần nữa, các tác giả gọi sự biến động bất cân xứng của tương quan
chéo của xuất khẩu ròng và đáp án mậu dịch là đường cong S, từ khi nó giống
chữ S nằm ngang, nhưng người đọc có lẽ chú ý nó là nền tảng của đường cong
J. Trong những nghiên cứu về phá giá đồng tiền, nó không thường xuyên có
những biến động như mong đợi trong đáp án mậu dịch có sự sắp xếp với sự sụt
giảm trong số dư thương mại mà sẽ đi ngược lại trong vòng 2-8 quý sau, do đó
sẽ đi theo hình chữ J. Một ví dụ cổ điển đúng vào năm 1967 về sự giảm giá
đồng tiền được viết bởi Jacques R Artus (1975). Sự giảm giá này đã dẫn đến
một nghiên cứu tiếp theo, bao gồm Junz và Rhomberg(1973), Magee(1973), và
Meade(1988), mà những nghiên cứu này theo dõi sự biến động của giá và ngoại
thương mà được cho là do sự trễ giữa việc đặt hàng và giao hàng của việc nhập
khẩu và thời gian cần thiết để những nhà nhập khẩu thay đổi năng suất của
mình. Vấn đề sẽ được trở lại ở phần IV.
Trong thời gian ngắn, các tác giả tìm thấy một số quy luật trong sự
chuyển động của xuất khẩu ròng và đáp án mậu dịch: Cả hai đều có sự tự tương
1 3
quan cao, cán cân ngoại thương hầu như biến đổi không theo quy luật, và sự
tương quan chéo giữa xuất khẩu ròng và đáp án mậu dịch là một hình chữ S bất
đối xứng.
3.2. Nghiên cứu mô tả một lý thuyết kinh tế mà ở đó hai quốc gia
có những sản phẩm tạo ra khác nhau về vốn và lao động, và
sẽ đối mặt với cú sốc năng suốt và chi tiêu Chính phủ
Chúng tôi so sánh các thuộc tính của các dữ liệu quốc tế với một mô
hình phát triển ngẫu nhiên với 2 quốc gia, mỗi nơi đều có 1 số lượng lớn các
đại lý giống hệt nhau. Nền kinh tế thế giới này là nền kinh tế đóng của 2 quốc
gia được sắp xếp hợp lý theo Kydland và Prescott’s (1982), trong đó mỗi quốc
gia sản suất 1 loại hàng hóa khác nhau với công nghệ của riêng mình và lực
lượng lao động cố định. Sự lên xuống của giá cả được thúc đẩy bởi những cú
sốc ngẫu nhiên đến từ việc sản xuất và việc mua hàng hóa và dịch vụ của chính
phủ.
Sở thích của đại lý đại diện tại mỗi quốc gia i được thể hiện bởi hàm số:
0
1U(cit,1-nit)
trong đó U(c, 1-n) = / và cit , nit tương ứng là lượng tiêu thụ
và giờ làm việc ở quốc gia i.
Đối với mỗi công nghệ, mỗi quốc gia chuyên sản xuất một loại hàng hóa
duy nhất, ký hiệu là a cho quốc gia 1 và b cho quốc gia 2. Hàng hóa được sản
xuất bởi vốn k và lao động n, với hàm sản xuất là như nhau.
Điều này đưa đến những khó khăn về nguồn lực
a1t + a2t = y1t = z1t F(k1t, n1t)
b1t + b2t = y2t = z2t F(k2t, n2t)
tương ứng ở quốc gia 1 và 2, với F(k,n) = , trong đó là tham số vốn cổ
phần. Số lượng yit thể hiện GDP ở quốc gia i, đo lường số đươn vị hàng hóa nội
1 4
địa, và ait, bit thể hiện lượng sử dụng 2 loại hàng hóa đó ở quốc gia i. Do đó, a2t
thể hiện lượng xuất khẩu từ quốc gia 1 sang quốc gia 2, và b1t thể hiện lượng
nhập khẩu vào quốc gia 1. Vecter zt = (z1t, z2t) thể hiện cú sốc ngẫu nhiên đến
việc sản xuất, hoặc công nghệ, mà tính chất của chúng được thể hiện trong
ngắn hạn.
Tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ - ký hiệu tương ứng là c, x, g – là
tổng hợp của hàng hóa trong và ngoài nước:
c1t + x1t + g1t = G(a1t, b1t)
c2t + x2t + g2t = G(a2t, b2t)
trong đó G(a, b) = là một đồng nhất thức bậc 1 và
. Do đó cả 3 lượng sử dụng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng đều là