Đề tài Dự án Luật Trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế

Theo dự kiến, tại Kỳ họp thứ 7 diễn ra đầu năm 2010, Quốc hội Khóa XII sẽ xem xét, thông qua Dự án Luật trọng tài thương mại. Đây là dự án Luật có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của nước ta. Để góp phần vào việc nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật, bài viết đề cập đến quá trình hình thành, thực trạng pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam, những hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu, định hướng hoàn thiện nhằm tiếp cận các chuẩn mực trọng tài thương mại quốc tế.

doc8 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dự án Luật Trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dự án Luật Trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế Theo dự kiến, tại Kỳ họp thứ 7 diễn ra đầu năm 2010, Quốc hội Khóa XII sẽ xem xét, thông qua Dự án Luật trọng tài thương mại. Đây là dự án Luật có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của nước ta. Để góp phần vào việc nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật, bài viết đề cập đến quá trình hình thành, thực trạng pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam, những hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu, định hướng hoàn thiện nhằm tiếp cận các chuẩn mực trọng tài thương mại quốc tế. 1. Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam 1.1. Trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 Trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM 2003), ở Việt Nam tồn tại hai loại hình trọng tài, đó là trọng tài kinh tế nhà nước và trọng tài phi chính phủ. Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước thành lập ra, có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước (1). Mô hình này được hình thành đầu tiên bằng Nghị định số 20/TTg ngày 14/4/1960. Sau đó, được nâng lên bằng Pháp lệnh Trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là Trọng tài kinh tế nhà nước, Trọng tài kinh tế tỉnh và Trọng tài kinh tế huyện. Mô hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức tòa án năm 1993. Bắt đầu từ thời điểm này, các tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế. Đối với trọng tài phi Chính phủ, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 5/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng Trọng tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ. Có 05 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này (02 Trung tâm tại thành phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm tại Cần Thơ và 01 Trung tâm tại Bắc Giang). Như vậy, tuy mang bản chất là hình thức trọng tài phi Chính phủ nhưng trọng tài thương mại tại Việt Nam được hình thành và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ, có Điều lệ và Quy tắc tố tụng riêng, không có bất kỳ liên quan nào đến loại hình trọng tài theo Nghị định số 116/CP. Trong khi đó, có 5 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định số 116/CP và chịu sự điều chỉnh duy nhất của Nghị định số 116/CP, không có liên quan gì đến Quyết định số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Điểm đáng lưu ý là, các văn bản pháp luật về trọng tài trong thời điểm này đều có hiệu lực pháp lý thấp, mới dừng ở mức cao nhất là nghị định. Nội dung văn bản còn có nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế đảm bảo cần thiết để vận hành có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân cơ bản là do được ban hành trong bối cảnh nền kinh tế mới trong giai đoạn bắt đầu chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật thương mại chưa được hình thành một cách đồng bộ, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ thương mại phát sinh trong thực tiễn. Thêm vào đó, yếu tố quản lý nhà nước trong quá trình ban hành văn bản pháp luật luôn được đề cao, trong khi yếu tố thực tiễn lại chưa được chú ý đúng mức. Vì vậy, các văn bản pháp luật về trọng tài, đặc biệt là Nghị định số 116/CP đã quá quan tâm đến vấn đề quản lý về trọng tài bằng việc đưa ra một loạt các điều kiện về việc thành lập các trung tâm trọng tài, về tiêu chuẩn trọng tài viên, về quản lý nhà nước về trọng tài v.v.. Trong khi đó, hàng loạt chế định cơ bản của trọng tài lại không được đề cập đến, như: vấn đề thoả thuận trọng tài vô hiệu và việc xử lý hậu quả của nó, sự can thiệp hỗ trợ của tòa án trong việc chỉ định trọng tài viên, thay đổi trọng tài viên, áp dụng biện pháp tạm thời, công nhận và thi hành quyết định trọng tài v.v.. Thực tiễn cho thấy, trọng tài không thể phát huy được hiệu quả nếu không có sự hỗ trợ của tòa án. ở các nước trên thế giới, tuy tòa án và trọng tài là hai phương thức giải quyết tranh chấp độc lập, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng tại Việt Nam, tòa án và trọng tài không có bất kỳ mối quan hệ nào. Vào thời điểm đó, có lẽ mối quan hệ duy nhất giữa tòa án và trọng tài được đề cập đến là việc phân định thẩm quyền giữa tòa án và trọng tài. Điều 32 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 quy định việc tòa án sẽ trả lại đơn kiện trong trường hợp “sự việc đã được các bên thoả thuận trước là giải quyết theo thủ tục trọng tài”. Tuy nhiên, quy định này cũng có nhiều bất cập, chỉ đề cập một cách chung chung là tòa án phải từ chối giải quyết tranh chấp khi các bên đã có thoả thuận trọng tài, nhưng đã bỏ sót một vấn đề quan trọng là hiệu lực pháp lý của thoả thuận trọng tài. Trong thực tế, các bên có thỏa thuận sử dụng trọng tài, khi thể hiện bằng một điều khoản trọng tài trong các hợp đồng. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết hoặc do sơ suất nên các bên đã ký những thoả thuận trọng tài không chính xác. Điều đó làm cho các thỏa thuận trọng tài trở nên không có giá trị pháp lý hoặc không thể thực hiện được. Các điều khoản trọng tài không rõ ràng tồn tại rất nhiều trong thực tế. Ví dụ, VIAC nhận được nhiều điều khoản trọng tài chỉ quy định “tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết bằng trọng tài”, “tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết bởi trọng tài kinh tế Việt Nam” hoặc “tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết bởi hội đồng trọng tài do các bên chỉ định” v.v.. Rõ ràng, những điều khoản trọng tài này rất khó áp dụng khi tranh chấp xảy ra (2), bởi nó không xác định tên của một tổ chức trọng tài cụ thể, hoặc các bên đã lựa chọn trọng tài adhoc (trọng tài vụ việc), một phương thức không được pháp luật Việt Nam thừa nhận vào thời điểm đó. Và với những điều khoản trọng tài không rõ ràng nêu trên, nếu khởi kiện ra tòa án thì tòa án cũng sẽ từ chối giải quyết vì các bên đã có thoả thuận trọng tài (3). Như vậy, tranh chấp có phát sinh trong thực tế nhưng không được cơ quan nào giải quyết. Đây là điểm bất cập lớn của hệ thống pháp luật về trọng tài trước đây. Ngoài ra, giải quyết tranh chấp cũng đòi hỏi phải có một số biện pháp bảo đảm cần thiết để bảo vệ lợi ích của các bên tranh chấp như ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, triệu tập nhân chứng v.v.. Do hạn chế về thẩm quyền, nhất là quyền đối với bên thứ ba, trọng tài không thể ra lệnh áp dụng các biện pháp này. Trong trường hợp này, pháp luật các nước đều có quy định vai trò hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài. Theo đó, trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy có nguy cơ tài sản là đối tượng của vụ tranh chấp bị tẩu tán, thì một bên có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo cho việc thi hành quyết định trọng tài sau này. Sẽ vô cùng rủi ro khi các bên chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp mà không biết rằng, pháp luật chưa có cơ chế để bảo đảm các quyền của các bên trong quá trình trọng tài. Vì vậy, chỉ với sự hỗ trợ cần thiết và kịp thời của tòa án, các bên mới có niềm tin khi sử dụng trọng tài. Tiếc rằng, pháp luật Việt Nam vào thời điểm đó đã bót sót chế định quan trọng này (4). Điểm bất cập tiếp theo đó là pháp luật không có cơ chế thi hành quyết định trọng tài. Đối với VIAC, tuy có Quy tắc tố tụng quy định về trình tự giải quyết vụ tranh chấp về cơ bản được coi là phù hợp với nguyên tắc giải quyết bằng trọng tài của các nước, nhưng dưới góc độ pháp lý, Quy tắc tố tụng chỉ giới hạn trong việc giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và cũng chỉ ràng buộc đối với các bên tranh chấp, không có sự ràng buộc đối với bên thứ ba. Do pháp luật không có quy định về vai trò của tòa án đối với trọng tài nên tòa án sẽ đứng ngoài cuộc, cho dù các bên có làm đơn yêu cầu tòa án can thiệp, hỗ trợ để bảo vệ quyền lợi của mình. Do vậy, đối với các doanh nghiệp, việc sử dụng trọng tài vào thời điểm đó không những không được đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp, mà còn phải gánh chịu nhiều rủi ro. Nhiều khi, trọng tài lại được ví như “chiếc bẫy”, được một số bên thiếu thiện chí sử dụng trong các giao dịch thương mại, bởi họ biết trước rằng cho dù có vi phạm hợp đồng và sau đó không thực hiện quyết định trọng tài thì họ cũng không phải gánh chịu một chế tài nào cả. Theo Quyết định số 204/TTg, các quyết định trọng tài của VIAC có giá trị chung thẩm, ràng buộc các bên và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trong thực tế, sau khi quyết định trọng tài được tuyên, việc thi hành quyết định trọng tài hoàn toàn phụ thuộc và sự tự nguyện thi hành của các bên. Nếu các bên không tự nguyện thi hành thì cũng không có chế tài nào được áp dụng. Đây là một giai đoạn có thể nói là vô cùng bất lợi cho các bên khi có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Việt Nam. Chính vì vậy mà rất nhiều nhà tư vấn, văn phòng luật sư nước ngoài đã đưa ra những khuyến cáo các doanh nghiệp nước ngoài không nên chọn trọng tài Việt Nam bởi có quá nhiều rủi ro. Đối với trọng tài được thành lập theo Nghị định số 116/CP, cơ chế thi hành quyết định trọng tài cũng không được đề cập đến. Thậm chí, một số quy định của Nghị định đã để lại hậu quả xấu hơn, trái hẳn với nguyên tắc giải quyết của trọng tài. Điều 31 của Nghị định số 116/CP quy định “Trong trường hợp quyết định trọng tài không được một bên chấp hành thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế”. Quy định này đã phá bỏ nguyên tắc giải quyết của trọng tài là quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm, làm cho pháp luật trọng tài Việt Nam hoàn toàn khác biệt với pháp luật trọng tài các nước, đồng thời làm triệt tiêu tính ưu việt của phương thức trọng tài là tính chung thẩm. Trọng tài vốn được các bên ưu tiên lựa chọn bởi thủ tục đơn giản, linh hoạt, thời gian ngắn. Trong khi đó, Nghị định số 116/CP đã đi ngược lại nguyên tắc này, gây tốn kém thêm chi phí về thời gian và tiền bạc của các bên. Chính vì các quy định bất cập trên, trong suốt một thời gian dài từ năm 1994 đến năm 2003, 05 trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP hầu như không có việc làm, có trung tâm từ ngày được thành lập đến khi Nghị định hết hiệu lực không nhận được bất kỳ một đơn kiện nào. 1.2. Khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 Pháp lệnh TTTM 2003 ra đời đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam. Có thể nói, hầu hết các bất cập trước đây đã được Pháp lệnh khắc phục và về cơ bản phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là sự hoàn thiện các quy định về vai trò hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với trọng tài cũng như xác định hiệu lực pháp lý của Quyết định trọng tài và cơ chế thi hành Quyết định trọng tài. Điều này làm cho các doanh nghiệp tin tưởng lựa chọn và sử dụng trọng tài nhiều hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu việt nói trên, qua sáu năm thực hiện, Pháp lệnh TTTM 2003 đã bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập, cần được khắc phục bằng việc ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại (Luật Trọng tài thương mại) với những quy định hoàn thiện hơn. Những vấn đề cần được giải quyết và hoàn thiện tại Pháp lệnh bao gồm: phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; chủ thể của các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; thỏa thuận trọng tài vô hiệu; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài; cách tính thời hiệu khởi kiện v.v.. 2. Những điểm mới của Dự thảo Luật Trọng tài thương mại Thứ nhất, về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài hay còn gọi là vai trò hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với trọng tài trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp Dự thảo đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này, theo đó trọng tài sẽ nhận được sự hỗ trợ kịp thời của tòa án nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trọng tài độc lập với tòa án trong việc giải quyết tranh chấp. Trong nội dung về phân định thẩm quyền của trọng tài và tòa án, Dự thảo quy định trong trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại toà án thì toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài được Toà án xác định là vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được. Tiếp theo, Dự thảo đã liệt kê các trường hợp tòa án hỗ trợ Trọng tài bao gồm: tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; chỉ định, thay đổi trọng tài viên; hỗ trợ thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; giải quyết yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; đăng ký phán quyết trọng tài (5). Các quy định này hoàn toàn phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, đảm bảo quá trình trọng tài được diễn ra thuận lợi, không bị trì hoãn. Đây chính là điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả. Thứ hai, Dự thảo mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài Theo đó, mọi tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng có thể được giải quyết bằng trọng tài, trừ một số tranh chấp sau: (i)    Tranh chấp liên quan đến các quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình. (ii)   Tranh chấp liên quan đến việc phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. (iii) Những trường hợp pháp luật có liên quan quy định. Như vậy, phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài không chỉ giới hạn là các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực thương mại theo quy định của Pháp lệnh TTTM 2003. Bên cạnh đó, yếu tố chủ thể cũng được mở rộng, theo đó “các bên” không phân biệt tổ chức hay cá nhân đều có thể lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Điều này đã khắc phục được bất cập của Pháp lệnh TTTM 2003, vốn chỉ cho phép trọng tài được giải quyết tranh chấp trong đó chủ thể phải là “tổ chức, cá nhân kinh doanh”. Với quy định trên, chắc chắn rằng sau khi Luật ra đời, số vụ tranh chấp đưa ra trọng tài sẽ tăng. Thứ ba, tiêu chuẩn trọng tài viên Trên thực tế, pháp luật trọng tài của hầu hết các nước không đưa ra tiêu chuẩn của Trọng tài viên mà tôn trọng quyền tự quyết của các bên tranh chấp, trong đó có quyền lựa chọn cho mình trọng tài viên phù hợp nhất để giải quyết tranh chấp, dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó. Tuy nhiên, trong điều kiện của Việt Nam, mức độ sàng lọc và khả năng tiếp cận đối với trọng tài còn hạn chế, Dự thảo đã đưa ra hai phương án. Phương án 1 được thiết lập trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh TTTM 2003 và xuất phát từ tình hình thực tế tại Việt Nam. Theo phương án này, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là Trọng tài viên. Phương án 2 được thiết lập theo mô hình trọng tài nước ngoài là không đưa ra yêu cầu về bằng cấp mà chỉ nhấn mạnh tiêu chí chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn. Theo phương án này, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp có thể là trọng tài viên. Ngoài ra, Dự thảo cho phép các Trung tâm trọng tài được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn khi kết nạp vào danh sách trọng tài viên của Trung tâm mình. Đồng thời, nhằm khuyến khích hoạt động của các Trọng tài viên, tạo điều kiện cho các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ, Dự thảo quy định việc thành lập Hiệp hội Trọng tài mà thành viên có thể là các Trọng tài viên hoặc các Trung tâm trọng tài. Thứ tư, quốc tịch trọng tài viên Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh TTTM 2003, Dự án Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ năm, Dự thảo đã nâng vị thế của Trọng tài một cách đáng kể thông qua việc cho phép Hội đồng trọng tài được quyền ra quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời Điều này sẽ giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Mô hình trao thẩm quyền cho Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đang rất phổ biến trong trọng tài thương mại quốc tế. Thứ sáu, về trọng tài quy chế So với Pháp lệnh TTTM 2003, Dự thảo bổ sung một số nội dung quan trọng, như đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế. Đặc biệt, để khuyến khích hoạt động trọng tài, Dự thảo quy định tổ chức trọng tài được miễn thuế đối với các khoản thu từ hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều này giúp cho trọng tài có điều kiện tích lũy để phát triển. Ngoài ra, Dự thảo cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thứ bảy, quy định chặt chẽ hơn về điều kiện và căn cứ hủy phán quyết trọng tài Cụ thể, một bên muốn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp được quy định cụ thể trong Dự thảo luật (6). Với quy định này, chắc chắn số lượng phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy sẽ giảm đi đáng kể. Các bên sẽ phải cân nhắc kỹ xem có đủ căn cứ để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hay không trước khi làm đơn ra tòa án yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Thứ tám, Điều khoản bảo vệ người tiêu dùng Đối với các tranh chấp giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn, thoả thuận trọng tài chỉ có hiệu lực với điều kiện nhà cung cấp phải thông báo trước và được người tiêu dùng chấp thuận bằng một văn bản riêng. Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết. Thứ chín, quy định mới về giới hạn trách nhiệm của các trọng tài viên Theo đó, trọng tài viên chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các bên đương sự bởi các hành vi cố ý vi phạm các quy định của pháp luật. Quy định này về cơ bản phù hợp với thông lệ và kinh nghiệm lập pháp của nhiều nước mà mục đích là để khuyến khích ý thức tuân thủ pháp luật và tính vô tư, khách quan của các trọng tài viên. Cuối cùng, trên cơ sở tiếp thu Luật mẫu UNCITRAL cũng như pháp luật trọng tài của các nước, Dự thảo đã xác lập nguyên tắc quan trọng là trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm, chẳng hạn như thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực, không có thỏa thuận trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà không đưa ra phản đối trong thời hạn quy định thì được coi là mất quyền khiếu nại tại Trọn