Đối với mỗi quốc gia, muốn có thể phát triển nhanh mạnh thì đều cần phải có một nền ngoại thương vững mạnh. Không có một quốc gia nào đóng cửa, tự mình phát triển mà lại trở nên hưng thịnh. Như vậy ngoại thương là một yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Ngày nay trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động thương mại đã trở thành một xu thế chung, và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các quốc gia phát triển, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong quan hệ thương mại với nước ngoài, mà cụ thể là xuất nhập khẩu, việc lựa chọn hàng hóa là rất quan trọng. Những hàng hóa được chọn xuất khẩu phải là những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế hơn quốc gia nhập khẩu, nhằm thu được lợi nhuận bằng ngoại tệ. Đối với Việt Nam, cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực chỉ đứng sau gạo. Hàng năm xuất khẩu cà phê đem về cho nền kinh tế một lượng ngoại tệ không nhỏ, đồng thời giải quyết hàng trăm nghìn công ăn việc làm cho người lao động trong nước.
Trong xu thế mở cửa hội nhập kinh tế thế giới như ngày nay, thị trường hàng hóa nói chung và cà phê Việt Nam nói riêng không ngừng được mở rộng. Trong đó phải kể đến thị trường Hoa Kì, đây là một trong những bạn hàng lớn nhất của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên thị phần của cà phê xuất khẩu Việt Nam ở thị trường này còn rất nhỏ bé và uy tín cũng như vị thế là chưa cao. Trong khi đó Việt Nam có năng lực sản xuất cà phê rất lớn, chúng ta có khí hậu và thỗ nhưỡng rất thích hợp với cây cà phê. Mặt khác Việt Nam đã được cả thế giới biết đến là cường quốc xuất khẩu cà phê và thương hiệu cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế. Tuy đứng sau Brazil về sản lượng cà phê nói chung nhưng Việt Nam có lợi thế chính là có sản lượng cà phê Robusta lớn nhất và giá thành sản xuất thấp nhất thế giới nhưng lại có một nghịch lý là giá thành xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam lại thấp hơn so với các nước khác. Đặc biệt là ở thị trường Hoa Kỳ, giá cà phê Việt Nam xuất sang Mỹ chỉ bằng 70% của Brazil, Indonesia Ngoài ra, cà phê Việt Nam chiếm chưa đến 15% số lượng và 6% tổng giá trị nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ. Có thể thấy cà phê Việt Nam vẫn chưa thật sự phát huy được thế mạnh ở ngay thị trường chính của mình. Do đó, em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ ” để thấy được những khó khăn cũng như hạn chế trong quá trình xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Hoa Kỳ nhằm đề ra các giải pháp giải quyết những khó khăn, khắc phục những hạn chế và thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê sang thị trường Hoa Kì.
Với đề tài này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của em là thu thập, xử lý, đánh giá và phân tích thông tin, số liệu, bên cạnh đó dựa vào những lý luận kinh tế làm cơ sở.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam và phạm vi nghiên cứu là: hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2007 đến nay.
Kết cấu của bài nghiên cứu này bao gồm những phần chính sau:
Lời mở đầu.
Nội dung chính:
• Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và tầm quan trọng của thị trường Hoa Kì đối với mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
• Chương 2: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Hoa Kì trong thời gian qua
• Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kì
Kết luận.
69 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2614 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dự báo và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ý KIẾN GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ THỊ TRƯỜNG HOA KÌ 6
1.1. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu 6
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu 6
1.1.2. Các hình thức hoạt động xuất khẩu 7
1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 9
1.2.1. Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu 9
1.2.2. Lập phương án kinh doanh 11
1.2.3. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng. 11
1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 14
1.2.5. Phân tích đánh giá kết quả, hiệu quả kinh doanh 14
1.3. Vai trò của xuất khẩu và xuất khẩu cà phê đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 15
1.3.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 15
1.3.2. Vai trò của xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế Việt Nam 18
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 20
1.4.1. Các nhân tố quốc tế 20
1.4.2. Các nhân tố quốc gia 20
1.4.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 22
1.5. Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ 23
1.5.1. Vài nét về Hiệp định thương mại Việt Mỹ. 23
1.5.2. Các chính sách thương mại của Hoa Kỳ 24
1.5.3. Các kênh thị trường và đầu mối buôn bán 24
1.5.4. Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 27
2.1. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt nam trong thời gian gần đây 27
2.1.1. Sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam 27
2.1.2. Thị trường xuất khẩu 29
2.1.3. Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam 30
2.1.4. Giá xuất khẩu 33
2.1.5. Cơ cấu và chủng loại 37
2.1.6. Thuận lợi và khó khăn của xuất khẩu cà phê Việt Nam 37
2.2. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 38
2.2.1. Nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ về sản phẩm cà phê 38
2.2.2. Thuế quan và các chính sách của Hoa Kỳ khi nhập khẩu cà phê Việt Nam 39
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 40
2.2.4. Tình hình tiêu thụ cà phê ở Hoa Kỳ 43
2.2.5. Cung cà phê trên thị trường Hoa Kỳ 44
2.2.6. Kim ngạch và số lượng 44
2.2.7. Cơ cấu và chủng loại 46
2.2.8. Chất lượng và giá cả 47
2.2.9. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ 50
2.2.10. Đánh giá về thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Mỹ 51
CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 54
3.1. Dự báo về thị trường cà phê thế giới 54
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 56
3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước 56
3.2.2. Hiệp hội và các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu cà phê 60
3.2.3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 61
KIẾN NGHỊ 66
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU 69
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với mỗi quốc gia, muốn có thể phát triển nhanh mạnh thì đều cần phải có một nền ngoại thương vững mạnh. Không có một quốc gia nào đóng cửa, tự mình phát triển mà lại trở nên hưng thịnh. Như vậy ngoại thương là một yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Ngày nay trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động thương mại đã trở thành một xu thế chung, và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các quốc gia phát triển, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong quan hệ thương mại với nước ngoài, mà cụ thể là xuất nhập khẩu, việc lựa chọn hàng hóa là rất quan trọng. Những hàng hóa được chọn xuất khẩu phải là những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế hơn quốc gia nhập khẩu, nhằm thu được lợi nhuận bằng ngoại tệ. Đối với Việt Nam, cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực chỉ đứng sau gạo. Hàng năm xuất khẩu cà phê đem về cho nền kinh tế một lượng ngoại tệ không nhỏ, đồng thời giải quyết hàng trăm nghìn công ăn việc làm cho người lao động trong nước.
Trong xu thế mở cửa hội nhập kinh tế thế giới như ngày nay, thị trường hàng hóa nói chung và cà phê Việt Nam nói riêng không ngừng được mở rộng. Trong đó phải kể đến thị trường Hoa Kì, đây là một trong những bạn hàng lớn nhất của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên thị phần của cà phê xuất khẩu Việt Nam ở thị trường này còn rất nhỏ bé và uy tín cũng như vị thế là chưa cao. Trong khi đó Việt Nam có năng lực sản xuất cà phê rất lớn, chúng ta có khí hậu và thỗ nhưỡng rất thích hợp với cây cà phê. Mặt khác Việt Nam đã được cả thế giới biết đến là cường quốc xuất khẩu cà phê và thương hiệu cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế. Tuy đứng sau Brazil về sản lượng cà phê nói chung nhưng Việt Nam có lợi thế chính là có sản lượng cà phê Robusta lớn nhất và giá thành sản xuất thấp nhất thế giới nhưng lại có một nghịch lý là giá thành xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam lại thấp hơn so với các nước khác. Đặc biệt là ở thị trường Hoa Kỳ, giá cà phê Việt Nam xuất sang Mỹ chỉ bằng 70% của Brazil, Indonesia… Ngoài ra, cà phê Việt Nam chiếm chưa đến 15% số lượng và 6% tổng giá trị nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ. Có thể thấy cà phê Việt Nam vẫn chưa thật sự phát huy được thế mạnh ở ngay thị trường chính của mình. Do đó, em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ ” để thấy được những khó khăn cũng như hạn chế trong quá trình xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Hoa Kỳ nhằm đề ra các giải pháp giải quyết những khó khăn, khắc phục những hạn chế và thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê sang thị trường Hoa Kì.
Với đề tài này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của em là thu thập, xử lý, đánh giá và phân tích thông tin, số liệu, bên cạnh đó dựa vào những lý luận kinh tế làm cơ sở.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam và phạm vi nghiên cứu là: hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2007 đến nay.
Kết cấu của bài nghiên cứu này bao gồm những phần chính sau:
Lời mở đầu.
Nội dung chính:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và tầm quan trọng của thị trường Hoa Kì đối với mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Hoa Kì trong thời gian qua
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hoa Kì
Kết luận.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ THỊ TRƯỜNG HOA KÌ
Khái niệm và các hình thức xuất khẩu
Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.Trong đó hàng hóa hay dịch vụ có thể di chuyển qua biên giới hoặc không.
Xuất khẩu hàng hóa - Luật Thương Mại 2005 - là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán hàng hoá, dịch vụ cho người hoặc tổ chức nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, có thể là ngoại tệ của một hoặc cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Dưới góc độ marketing, xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài gặp nhiều sự cạnh tranh của các đối thủ có trình độ quốc tế.Mục đích của hoạt động xuất khẩu nhằm khai thác được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia khi có sự phân công lao động quốc tế.
Theo nghị định 57/1998/NĐ-CP (ban hành 31/7/1998) hướng dẫn về thi hành luật thương mại đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thì “hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoá”.
Như vậy có thể thấy hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao… dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng mục tiêu của xuất khẩu là đem lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu và qua đó đem lại lợi ích cho quốc gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng cả về không gian lẫn thời gian, có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và cũng có thể diễn ra trong kéo dài hàng năm. Đồng thời nó có thể được tiến hành trên toàn lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Các hình thức hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất, công ty xí nghiệp và các nhà xuất khẩu, trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán trao đổi hàng hoá với đối tác nước ngoài.
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp muốn có hàng hóa để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hóa thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hon các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì các doanh nghiệp có thể mua được những hàng hóa có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hóa có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn khi bị thất thoát hàng hóa.
Xuất khẩu gián tiếp (uỷ thác)
Là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò trung gian thực hiện xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị uỷ thác. Xuất khẩu uỷ thác gồm 3 bên, bên uỷ thác xuất khẩu, bên nhận uỷ thác xuất khẩu và bên nhập khẩu. Bên uỷ thác không được quyền thực hiện các điều kiện về giao dịch mua bán hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán.... mà phải thông qua bên thứ 3 - người nhận uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp không được phép kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm đơn vị xuất khẩu hàng hoá cho mình, bên nhận uỷ thác được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Xuất khẩu gia công uỷ thác
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó có một đơn vị đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi sản phẩm để xuất khẩu cho nước ngoài. Đơn vị này được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
Buôn bán đối lưu (xuất khẩu hàng đổi hàng)
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu của nhà nước giao cho để tiến hành xuất một hoặc một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh toán.
Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh xuất khẩu mới đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi do ưu điểm của nó đem lại. Đặc điểm của loại hàng xuất khẩu này là hàng hoá không cần phải vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại đến với nhà xuất khẩu. Mặt khác, doanh nghiệp tránh được một số thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá. Do đó, giảm được một lượng chi phí khá lớn.
Hình thức xuất khẩu tại chỗ đang được các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều đơn vị kinh doanh, các tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó khai thác tối đa và đã thu được những kết quả to lớn, không thua kém so với xuất khẩu trực tiếp qua biên giới quốc gia, đồng thời có cơ hội thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao.
Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên nhập nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm (bên nhập gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được phí gia công.
Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang được phát triển mạnh mẽ và được nhiều quốc gia trong đó đặc biệt là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, họ còn có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc kỹ thuật công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với bên đặt gia công, họ được lợi nhuận từ chỗ tận dụng được giá nhân công và nguyên phụ liệu tương đối rẻ của nước nhận gia công.
Hình thức xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng trong các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giày dép,…
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán hàng hoá với khối lượng lớn, có tính chất đồng loại và có phẩm chất có thể thay đổi được với nhau.
Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung của quan hệ cung cầu về một mặt hàng giao dịch trong một khu vực ở một thời điểm nhất định. Do đó giá cả công bố tại sở giao dịch có thể xem như một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế.
Tái xuất khẩu
Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã nhập khẩu với điều kiện hàng hoá phải nguyên dạng như lúc đầu nhập khẩu.
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được hay sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập vào để sau đó tái xuất.
Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn lúc ban đầu bỏ ra. Các bên tham gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới
Để nắm rõ các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm mục đích thích ứng kịp thời và làm chủ nó thì phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của mỗi quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất khẩu hoạt động trên thị trường thế giơí có hiệu qủa nhất.
Để công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả chúng ta cầm phải xem xét toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn ở lĩnh vực phân phối, tiêu dùng.
Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường cần phải nắm vững được thị trường và khách hàng để trả lời tốt các câu hỏi của hai vấn đề là thị trường và khách hàng, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các vấn đề sau: thị trường đang cần mặt hàng gì, nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng, Nghiên cứu giá cả các loại hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng, Lựa chọn đối tượng giao dịch.
Nghiên cứu thị trường cung cấp hàng hoá xuất nhập khẩu
Hợp đồng kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng thực tế là hành vi mua và bán. Bán là quan trọng và khi bán được tức là kiếm được tiền song trên thực tế mua lại là tiền đề ra và cơ sở cho hành vi kiếm tiền. Do vậy, nghiên cứu về thị trường cung cấp hàng cho công ty để công ty lựa chọn được nguồn hàng phù hợp có ý nghĩa rất lớn.
Viện nghiên cứu về nguồn hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi về nguồn cung cấp mà đòi hỏi phải xác định rõ về khả năng cung ứng của từng nguồn cụ thể như:
+ Khối lượng hàng hoá mà mỗi nguồn có thể cung cấp.
+ Quy cách, chủng loại hay chất lượng của hàng hoá.
+ Thời điểm hàng hoá có thể thu mua.
+ Đơn giá ứng với từng loại hàng hoá và phương thức mua.
+ Đặc điểm kinh doanh của từng chân hàng.
Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn có mục đích xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những nhu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu như vệ sinh thực phẩm hay không dựa trên cơ sở đó người XNK có những hướng dẫn cho người cung cấp điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài.
Mặt khác nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả của hàng hoá trong nước so với giá cả quốc tế như thế nào? Để từ đây có thể tính được doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận là bao nhiêu từ đó đưa quyết định chiến lược kinh doanh của từng công ty.
Ngoài ra, qua nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu biết được chính sách quản lý của nhà nước về mặt hàng đó như thế nào? Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu không? Có thuộc hạn ngạch xuất khẩu không? Có được nhà nước khuyến khích không?
Sau khi đã tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường hàng hoá thế giới (thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước (thị trường nguồn hàng xuất khẩu)) công ty tiến hành đánh giá, xác định và lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu phù hợp với nguồn lực và các điều kiện hiện có của công ty để tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất.
Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu lượm trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
a. Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân
b. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh
c. Đề ra mục tiêu
d. Đề ra biện pháp thực hiện
e. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh
Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng.
Giao dịch đàm phán
a. Các bước đàm phán.
Hỏi giá (Inquiry):
Đây là việc người mua đề nghị người bán cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn..
Chào hàng (Offer)
Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán khi phát giá chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình.
Trong chào hàng ta nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, giá cả số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn mua hàng, điều kiện thanh toán bao bì ký mã hiệu, thể thức giao nhận
Đặt hàng (Oder)
Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
Ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó.
Hoàn giá (Counter-offer)
Khi nhân được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn chào hàng (đặt hàng) đó mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá, chào hàng trước coi như huỷ bỏ trong thực tế, một lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc.
Chấp nhận giá (Acceptance)
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp thuận có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải đảm bảo những điều kiện dưới đây:
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận
- Phải đồng ý hoàn toàn về điều kiện với mọi nội dung của chào hàng.
- Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ea đề nghị.