Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế

Đầu tư là gì? Đầu tư để làm gì? Vai trò của đầu tư? Đây là những câu hỏi mà bất kì 1 nền kinh tế, 1 nhà kinh tế nào cũng đều phải nghiên cứu và tìm ra lời đáp. Các trường phái kinh tế từ khi nền kinh tế mới hình thành đã nghiên cứu về đầu tư và đã khẳng đinh phần nào vai trò đầu tư trong tăng trưởng và phát triển kinh tê. Mác đã từng khẳng định: Vốn đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản rạo ra sự tăng trưởng phát triển kinh tế quốc gia hay như A.Smith trong cuốn “Của cải các dân tộc” cũng cho rằng: “Vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu đến số lao động hữu hiệu và hiệu quả” Ở Việt Nam đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), vai trò của đầu tư đã thực sự được khẳng định. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô đầu tư và sử dụng hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần làm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, làm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…Thông qua việc cải cách cơ chế đầu tư, thực hiện chính sách mở cửa,mức gia tăng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng cao, kéo theo đó là tốc độ tăng trưởng nền kinh tế ngày gia tăng và ổn định hơn trong những năm qua. Những năm gần đây, vốn đầu tư vào Việt Nam đạt được mức cao đáng kể, tuy nhiên với mức gia tăng tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có thể coi là thỏa đáng chưa? Vì thế vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao để có chất lượng đầu tư cao hơn, mức gia tăng tốc độ kinh tế phải xứng đáng với vốn đầu tư bỏ ra, chính sách đầu tư phải tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, đầu tư vào những lĩnh vực thế mạnh phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bằng việc ban hành các văn bản hướng dẫn,và thực hiện hàng loạt các biện pháp thẩm định, nâng cao chất lượng các luồng vốn đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực….đầu tư càng thể hiện rõ vai trò của mình trong tiến trình đến một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai gần. Tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế cùng những yêu cầu mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, chính phủ Việt Nam phải có những định hướng đúng cho nguồn vốn đầu tư để có được chất lượng tăng trưởng cao nhất. Việc huy động và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả sẽ là bàn đạp cho sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung.

doc45 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3745 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Đầu tư là gì? Đầu tư để làm gì? Vai trò của đầu tư? Đây là những câu hỏi mà bất kì 1 nền kinh tế, 1 nhà kinh tế nào cũng đều phải nghiên cứu và tìm ra lời đáp. Các trường phái kinh tế từ khi nền kinh tế mới hình thành đã nghiên cứu về đầu tư và đã khẳng đinh phần nào vai trò đầu tư trong tăng trưởng và phát triển kinh tê. Mác đã từng khẳng định: Vốn đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản rạo ra sự tăng trưởng phát triển kinh tế quốc gia hay như A.Smith trong cuốn “Của cải các dân tộc” cũng cho rằng: “Vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu đến số lao động hữu hiệu và hiệu quả” Ở Việt Nam đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), vai trò của đầu tư đã thực sự được khẳng định. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô đầu tư và sử dụng hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần làm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, làm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…Thông qua việc cải cách cơ chế đầu tư, thực hiện chính sách mở cửa,mức gia tăng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng cao, kéo theo đó là tốc độ tăng trưởng nền kinh tế ngày gia tăng và ổn định hơn trong những năm qua. Những năm gần đây, vốn đầu tư vào Việt Nam đạt được mức cao đáng kể, tuy nhiên với mức gia tăng tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có thể coi là thỏa đáng chưa? Vì thế vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao để có chất lượng đầu tư cao hơn, mức gia tăng tốc độ kinh tế phải xứng đáng với vốn đầu tư bỏ ra, chính sách đầu tư phải tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, đầu tư vào những lĩnh vực thế mạnh phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Bằng việc ban hành các văn bản hướng dẫn,và thực hiện hàng loạt các biện pháp thẩm định, nâng cao chất lượng các luồng vốn đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực….đầu tư càng thể hiện rõ vai trò của mình trong tiến trình đến một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai gần. Tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế cùng những yêu cầu mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, chính phủ Việt Nam phải có những định hướng đúng cho nguồn vốn đầu tư để có được chất lượng tăng trưởng cao nhất. Việc huy động và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả sẽ là bàn đạp cho sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung. Trong phạm vi đề tài: “Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế”, chúng em sẽ trình bày một số lí thuyết kinh tế về đầu tư, từ đó giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế; đồng thời phân tích, đánh giá tác động của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Trong quá trình nghiên cứu, tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ hoàn thành đề tài. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I / Một số lí thuyết kinh tế 1. Lí thuyết cơ bản về đầu tư 1.1. Khái niệm: Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn) tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn,quản lí…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất XH. Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ ngườ đầu tư mà cả nền kinh tế XH được hưởng thụ trên đây không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người chủ đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Quá trình tiến hành một công cuộc đầu tư kể từ khi bắt đầu chi phí các nguồn lực cho đến khi các thành quả của quá trình đầu tư phát huy tác dụng và ngừng hoạt động có rất nhiều công việc phải làm với tính chất kĩ thuật rất đa dạng, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức của rất nhiều ngành kinh tế kĩ thuật khác nhau vào quá trình thực hiện đầu tư theo từng giai đoạn và toàn bộ các công cuộc đầu tư. Nguồn lực chi phí cho một công cuộc đầu tư là rất lớn, thời gian cần hoạt động của các kết quả đầu tư để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra (đối với các công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh) hoặc để các lợi ích thu được tương xứng và lớn hơn những hi sinh về nguồn lực mà nền kinh tế bỏ ra cũng rất lâu (đối với các công cuộc đầu tư công cộng). Có hai hình thức đầu tư mà ta xét: - Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu tư. - Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên có thể thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v...), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro khó lường trước. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư góp phần giải quyết sự khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng tới nền kinh tế. 1.2. Các loại hình đầu tư 1.2.1. Đầu tư phát triển Khái niệm Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dung vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiêt bị, tài nguyên. Như vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia. Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động XH, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư thao lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế…). Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của XH. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế XH thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và XH, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lí, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lí Nhà nước các cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo… Nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó cũng được xem là đầu tư phát triển. Mục đích Đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong XH. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực… Hoạt động của đầu tư phát triển là một quá trình diễn ra trong thời kì dài và tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả thường được thu trong tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả ,chi phí và hiệu quả đầu tư phát triển. Đặc điểm của đầu tư phát triển: - Quy mô tiền vốn vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khô đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Lao động cần sử dụng cho cac dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. - Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian kéo dài hàng chục năm. - Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay nơi no được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cung như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, XH vùng. Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lí hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau: + Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng đắn. + Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lí. - Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài, thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Nội dung của đầu tư phát triển: Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tuỳ theo cách tiếp cận. Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, đầu tư phát triển bao gồm các nội dung sau: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phat striển văn hoá giáo dục y tế và dịch vụ XH khác, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và những nội dung phát triển khác. Cách tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động cho từng ngành lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản vật chất (tài sản thực) và đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư các tà sản vật chất gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ. Đầu tư tài sản vô hình gồm các nội dung sau: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học, kĩ thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng cáo. 1.2.2. Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại 1.2.2.1. Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị truờng vốn để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu…). Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng sản phẩm thực (tài sản vật chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Mua cổ phiếu (đầu tư cổ phiếu) gắn với việc chuyển quyền sở hữu và hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử dụng,do vậy, hai loại đầu tư này đều thuộc hoạt động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán. Đầu tư tài chính còn có đặc điểm là: chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho chủ đầu tư. 1.2.2.2. Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. 1.2.3. Mối quan hệ giữa ba loại hình đầu tư Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại hình đầu tư luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích luỹ, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thuơng mại. Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. 1.3. Các lí thuyết kinh tế về đầu tư 1.3.1.Số nhân đầu tư Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị . Công thức tính: k = ∆Y/ ∆I (1) Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng ∆I : Mức gia tăng đầu tư k : Số nhân đầu tư Từ công thức (1) ta được ∆Y = k * ∆I (2) Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể biến đổi công thức (2) thành: k == ==== (3) Trong đó: MPC =  Khuynh hướng tiêu dùng biên MPS =  Khuynh hướng tiết kiệm biên Vì MPS 1 Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng. Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế. 1.3.2.Gia tốc đầu tư Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tể học trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung, nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau: x =  (4) Trong đó: K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu x : Hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức (4) suy ra: K = x * Y (5) Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất. Theo công thức (5), có thể kết luận:sản lượng phải tăng liên tục mới là cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước. * Ưu điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư: - Lí thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác. - Lí thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn,dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều. *Nhược điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư: - Lí thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tưlà cố định.thực tế đại lượng này (x) luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau. - Thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì, từ công thức (5) có thể viết: + Tại thời điểm t: Kt = x * Yt (6) + Tại thời điểm (t-1): K(t-1) = x *Y(t-1) (7) + Lấy (6) trừ (7) ta được: Kt – K(t-1) = x*Yt – x*Y(t-1) = x*( Yt – Y(t-1)) (8) Trong đó: Kt – K(t-1): Đầu tư ròng và bằng (It – D) với D là khấu hao Do đó: It – D = Kt – K(t-1) =x * (Yt – Y(t-1)) = x *  (9) Và đầu tư ròng:  (10) Như vậy, theo lí thuyết này, đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0. (Khi  thì I =0) - Theo lí thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung… Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tuc được hoàn thiện qua thời gian.theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tạivà quá khứ, nghĩa là, qui mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn. Nếu gọi: Kt và K (t-1) là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1) Kt* là vốn đầu tư mong muốn là một hằng số ( 0<<1 ) Thì: Kt – K(t-1) = *(Kt* - K(t-1)) Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện thời kì t - 1. Nếu thì Kt = Kt*. Và lí thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thi đầu tư thuần:  Theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: Kt – K(t-1) = . Và do đó:  Để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định: Dt =   là hệ số khấu hao và 0. Do đó: It –Dt = It -  hoặc It =  (11) It chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện. Lí thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng bổ sung lao động,nguyên vật liệu sản xuất… dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng,dẫn đến gia tăng tiêu dung (do thu nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Quá trình này diễn ra liên tuc, dây chuyền. 1.3.3.Quỹ nội bộ của đầu tư Theo lí thuyết này,đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế: I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuân cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi