Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của con người, trong đó con người gắn bó với nhau bởi những quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Gia đình giúp duy trì sự phát triển của xã hội và nó được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu tố xã hội khác nhau trong điều kiện kinh tế lúc bấy giờ, thế nên cũng vô cùng đa dạng. Đặc biệt gia đình được hình thành không hề phụ thuộc vào ý trí của nhà nước, mà nó thể hiện ý trí của hai bên nam nữ, thế nên việc tạo ra các điều luật chặt chẽ để ràng buộc những mối quan hệ này trong một khuôn khổ nhất định là vấn đề vô cùng cấp thiết. Dưới đây chúng tôi xin được trình bày những tìm hiểu của nhóm về vấn đề : “Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực ”.
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2427 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của con người, trong đó con người gắn bó với nhau bởi những quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Gia đình giúp duy trì sự phát triển của xã hội và nó được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu tố xã hội khác nhau trong điều kiện kinh tế lúc bấy giờ, thế nên cũng vô cùng đa dạng. Đặc biệt gia đình được hình thành không hề phụ thuộc vào ý trí của nhà nước, mà nó thể hiện ý trí của hai bên nam nữ, thế nên việc tạo ra các điều luật chặt chẽ để ràng buộc những mối quan hệ này trong một khuôn khổ nhất định là vấn đề vô cùng cấp thiết. Dưới đây chúng tôi xin được trình bày những tìm hiểu của nhóm về vấn đề : “Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực ”.
B.NỘI DUNG
I. Khái niệm và thực trạng hôn nhân ở Việt Nam và thế giới:
1) Khái niệm về hôn nhân, hôn nhân hợp pháp và hôn nhân thực tế:
Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, nhằm chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1 và Điều 18 luật hôn nhân và gia đình năm 2000).
Về nguyên tắc quan hệ hôn nhân chỉ được coi là hợp pháp khi hai bên nam nữ thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn, thực hiện đăng ký kết hôn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đúng nghi thức.
Nhưng trong thực tế vẫn còn có rất nhiều trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng, mà không có đăng kí kết hôn; họ đến với nhau là hoàn toàn tự nguyện và với mục đích xây dựng gia đình, những người này có thể đủ hoặc không đủ điều kiện kết hôn, nhưng họ vẫn tổ chức đám cưới hay nghi lễ cưới hỏi để công bố với tất cả mọi người và việc họ chung sống với nhau lại đều được cả 2 bên gia đình chấp nhận, được xã hội xung quanh hay những người thân coi như vợ chồng. Những trường hợp như trên được gọi là “Hôn nhân thực tế”.
Vậy thuật ngữ “Hôn nhân thực tế ” chỉ quan hệ vợ chồng mà khi xác lập quan hệ đó các bên nam nữ không tiến hành đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật. Mặc dù không có Giấy chứng nhận kết hôn nhưng các bên nam nữ vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội.
2) Thực trạng hôn nhân ở Việt Nam và thế giới:
Chúng ta biết rằng, với tư cách là một thực thể xã hội, gia đình hình thành không phụ thuộc vào các thủ tục hành chính do Nhà nước đặt ra.Việc chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là một hiện tượng xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Có nhiều lí do để một người nam và một người nữ không đăng kí cuộc sống chung của mình.
Trong lịch sử Pháp luật Việt Nam đương đại, quy định về đăng kí kết hôn không phải luôn được tuân thủ chặt chẽ. Một mặt, do hoàn cảnh chiến tranh nên việc quản lý hộ tịch gặp nhiều khó khăn. Nhiều cặp vợ chồng, cán bộ, bộ đội kết hôn trước sự chứng kiến của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc, của bạn bè, làng xóm mà không có một thủ tục pháp lý nào khác. Mặt khác, là do phong tục, tập quán ở những nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số và một số địa phương còn lạc hậu; có nơi có phong tục, tập quán là việc nam nữ trở thành vợ chồng chỉ cần có sự đồng ý của già làng, trưởng bản hoặc có sự đồng ý của hai bên cha mẹ là đủ. Họ không thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đăng kí kết hôn tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thậm chí họ còn không biết đến quy định về đăng kí kết hôn. Trong những trường hợp này, về mặt chủ quan, người nam và người nữ vẫn cư xử đúng như cặp vợ chồng đích thực, chăm sóc, giúp đỡ nhau, sinh con và cùng nhau vun đắp cho cuộc sống gia đình.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc không đăng kí kết hôn còn có một nguyên nhân khác: đó là sự lựa chọn chủ động của hai người trong cuộc, họ không đăng kí vì họ không muốn làm thủ tục này. Có nhiều lí do cho thái độ xử sự này: có nhiều người lớn tuổi, những người đã ly dị hoặc ở góa không cảm thấy tính cần thiết của việc này trước sự chín chắn của mình và cho sự kết hợp lúc xế chiều của mình hoặc đã mệt mỏi với những mối liên hệ chặt chẽ của cuộc sống hôn nhân. Hiện nay trong giới trẻ đang tồn tại một xu hướng khác đó là không muốn đăng kí kết hôn để có thể có một lối ra dễ dàng khi họ không muốn ràng buộc nhau nữa. Từ đó có thể thấy những người chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn hiểu rằng họ không phải là vợ chồng trước pháp luật và họ chủ động chấp nhận tình trạng này. Quan hệ chung sống như vợ chồng không có đăng kí kết hôn lúc này có thể trở thành một lối sống, một hiện tượng xuất hiện bên cạnh các cuộc hôn nhân hợp pháp.
II. Quan điểm và đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng (Hôn nhân thực tế) mà không đăng kí kết hôn,nhưng không trái pháp luật ở Việt Nam khi bộ luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực :
1) Quan điểm của pháp luật đối với quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn và không trái pháp luật trước và sau khi luật Hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực:
Theo nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì công nhận việc chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là hợp pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng.
Nhưng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tại Điều 11 có quy định :
“ 1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa”.
Như vậy, kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn, dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật cũng không được công nhận là hôn nhân thực tế và không có giá trị pháp lý. Điều này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta là sẽ chấm dứt việc công nhân “hôn nhân thực tế”.
2) Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không trái pháp luật :
Với tinh thần trên, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định số 77/2001/N-CP và thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 đã có những hướng dẫn cụ thể việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những trường hợp vi phạm việc đăng kí kết hôn trước và sau ngày 1/1/2001.
u_ Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987:
Căn cứ vào khoản a điều 3 Nghị quyết số 35 quy định:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng đợc xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
Như vậy trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn sẽ không bị buộc phải đăng kí kết hôn và theo Điều 1, Điều 2 Nghị định số 77/CP trường hợp này được “nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho đăng kí kết hôn”. Việc đăng kí kết hôn của họ không bị hạn chế về mặt thời gian, họ được miễn lệ phí đăng kí kết hôn.
Không buộc phải đăng kí kết hôn và vẫn thụ lý để giải quyết việc ly hôn nếu các bên yêu cầu. Điều này được hiểu rằng chúng ta chấp nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987. Đối với trường hợp này cách giải quyết như vậy là hợp lý và chúng tôi cũng tán thành với các quan điểm sau:
“ - Thứ nhất, quan hệ này được xác lập trong một thời điểm đặc biệt, trước khi chưa có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, chúng ta mất một khoảng thời gian dài đất nước bị chia cắt. Điều này tác động không nhỏ đến vấn đề đăng kí kết hôn.
- Thứ hai, các quan hệ được xác lập trước ngày 3/1/1987, tính đến thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, khoảng thời gian này là khá dài, mối quan hệ giữa hai bên nam nữ tương đối ổn định. Bởi vậy, công nhận “hôn nhân thực tế” đối với những trường hợp này là vấn đề cần thiết để ổn định quan hệ hôn nhân gia đình, tránh những xáo trộn trong đời sống gia đình của họ.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng cần phải có quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này, không phải mọi trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/1/1987 đều được pháp luật bảo vệ giống như tinh thần quy định tại điểm a, khoản 3 Nghị quyết 35 mà chỉ những trường hợp vi phạm đăng kí kết hôn nhưng tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn mới được pháp luật bảo vệ.”
v_ _Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực pháp luật):
Điểm b, khoản 3 Nghị quyết số 35 quy định:
“Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ ngày luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003, trong thời hạn này mà họ không đăng kí kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; ”
Như vậy, theo quy định này thì từ ngày 3/1/1987 các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn thì buộc phải đăng kí kết hôn và đăng kí trong thời hạn kể từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003. theo quy định tại Nghị định 77/2001NĐ-CPthì trong thời hạn này nếu các bên nam nữ đăng kí kết hôn thì vẫn được thừa nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các trường hợp chưa đăng kí kết hôn có nghĩa là pháp luật vẫn công nhận quan hệ hôn nhân của họ từ khi họ bắt đầu chung sống với nhau. Đây cũng chính là cách giải quyết linh động nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nam nữ song vẫn đảm bảo tính thống nhất của quy định “buộc các bên phải đăng kí kết hôn”. Bởi vì nếu hết thời hạn quy định nói trên mà họ vẫn không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Thông tư liên tịch số 01/2001TTLT-TA-VKS-BTP có hướng dẫn cách xác định thời điểm nam nữ chung sống như vợ chồng như sau: “thời điểm nam nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc về sống chung với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây dựng gia đình”. Như vậy, xác định được thời điểm nam nữ bắt đầu chung sống với nhau, chúng ta có cơ sở để ghi nhận ngày hôn nhân có hiệu lực và ghi vào sổ kết hôn cũng như giấy chứng nhận đăng kí kết hôn. Điều này thực sự có ý nghĩa cho việc giải quyết quyền lợi cho các bên đương sự. Mặt khác, theo thông tư liên tịch số 01/2001TTLT-TA-VKS-BTP nếu sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng kí kết hôn thì trong trường hợp này quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng kí kết hôn.
w_ Trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn kể từ ngày 1/1/2001:
Theo khoản 3, điểm c Nghị quyết 35 của Quốc hội :
“ Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ những trường hợp quy định tại điểm a và b khoản 3 của Nghị quyết này, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có ly hôn thì tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con cái, tài sản thì áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 việc kết hôn không đăng kí không được công nhận. Điều này thể hiện thái độ kiên quyết của nhà nước ta trong việc chấm dứt tình trạng “hôn nhân thực tế”. quy định này là đúng đắn và phù hợp bởi vì mọi quy định của pháp luật cần phải được tuân thủ một cách chặt chẽ mới đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
III. Trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật vi phạm điều 9, điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; cách giải quyết của pháp luật Việt Nam :
ö Trường hợp người vi phạm là cán bộ, bộ đội; thời gian xác lập vi phạm là trước năm 1978 :
Đây là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, chồng nhưng khi tập kết ra Bắc(1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Như vậy, các trường hợp trên đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt lâu dài, sự vi phạm này không phải do ảnh hưởng của chế độ hôn nhân phong kiến.Cho nên đường lối giải quyết vấn đề này cũng hoàn toàn khác. Khi giải quyết trường hợp đặc biệt này cần căn cứ vào Thông tư 60/TATC ngày 22/2/1978 của TANDTC hướng dẫn các Toà án nhân dân địa phương: “Nay nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đây thì công nhận cả hôn nhân trước đây và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp”. Cụ thể có :
-Trường hợp 1: Cuộc hôn nhân này không có sự lừa dối, Thông tư 60/TATC ngày 22/2/1978 của TANDTC: “đây là trường hợp vi phạm khoản 1 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình nhưng do ngoại lệ nên không nhất thiết phải xử huỷ hôn, tuỳ theo trường hợp cụ thể mà Toà án có thể giải quyết khi có yêu cầu của chủ thể ”.
+Nếu các đương sự thuận tình li hôn thì Toà án giải quyết li hôn cho các bên như trường hợp hôn nhân hợp pháp theo điều 90 Luật Hôn nhân gia đình 2000.
+Trường hợp người chồng hoặc vợ trước ở miền Nam yêu cầu huỷ việc kết hôn của vợ, chồng mình với người vợ hoặc chồng ở miền Bắc thì Toà án cần giải thích cho họ thấy rõ nguyên nhân của việc kết hôn này là do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt bởi chiến tranh và khuyên họ nên rút đơn. Nếu không rút đơn thì “Toà án đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thoả mãn được yêu cầu của đương sự”.
-Trường hợp 2: Có sự lừa dối, dối trá trong hôn nhân, thì sau khi điều tra, nếu Toà án có đủ bằng chứng chứng minh người tập kết đã dối trá khi kết hôn rằng chưa có vợ hoặc chồng ở miền Nam, nhưng sự thật thì đã có. Nếu người vợ hoặc chồng sau ở miền Bắc bị lừa dối kết hôn yêu cầu Toà án xử huỷ hôn thì Toà xử huỷ việc kết hôn đó.
ö Trường hợp vi phạm điều 9, điều 10 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ngoài trường hợp trên:
-Vi phạm lần đầu: Tiến hành xử phạt như điều 8 Nghị định của chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình số hiệu 87/2001/NĐ-CP.
-Vi phạm lần hai: Tiến hành xử phạt hình sự theo bộ luật hình sự năm 1999 và Thông tư liên tịch của Bộ tư pháp-Bộ công an-Toà án nhân dân tối cao-Viện kiểm soát nhân dân tối cao số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 về việc hướng dẫn sử dụng các quy định tại chương XV của bộ luật hình sự năm 1999.
Vì đây là hành vi vi phạm pháp luật nên không tránh khỏi sự xử lý theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21.11.2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng”. Khung hình phạt người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ Luật Hình sự – quy định về việc việc xử lý tội vi phạm chế một vợ, một chồng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ Luật Hình sự, nếu người phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc ít có tình tiết giảm nhẹ. Nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Luật Hình sự, là trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó; hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng, bị toà án tuyên huỷ việc kết hôn hoặc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì người phạm tội bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì toà án có thể áp dụng điều 47 Luật Hình sự phạt dưới 6 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt đến 3 năm tù ( mức cao nhất của khung hình phạt).
IV . Hậu quả pháp lý của việc không xác lập quan hệ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận việc kết hôn mà không đăng kí. Theo đó, trường hợp các bên xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí; khi có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ thực hiện biện pháp: “ Tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng” và áp dụng quy định hậu quả pháp lý của việc đăng kí kết hôn trái pháp luật để giải quyết vấn đề tài sản và con chung cho các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân không đăng kí khi có yêu cầu. Như vậy theo điều 3 nghị quyết số 35/2000/QH10 ta sẽ xác định được những trường hợp hôn nhân không có giá trị pháp lý và nếu họ có yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành và giải quyết như sau:
Về mặt nhân thân:
Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, kể từ thời điểm đó họ phải chấm dứt việc sống chung như vợ chồng.
Về mặt tài sản:
Nếu các bên yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản, Tòa áp dụng khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết như sau:
Tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó, đương nhiên người có tài sản có nghĩa vụ chứng minh tài sản đó thuộc về sở hữu riêng của mình. Trên cơ sở đó Tòa án sẽ giải quyết việc bảo vệ quyền lợi cho người có tài sản riêng. Đối với tài sản chung, tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên. Khi các bên không thỏa mãn được và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ chia tài sản chung cho hai bên có tính đến “công sức đóng góp của mỗi bên” và rõ ràng không phải là “chia đôi một cách bình đẳng”. Tuy nhiên không chỉ căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên mà phải xem xét vào nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con,theo quy định của Điều 17, khoản 3 thì quyền lợi của phụ nữ và con được “ưu tiên” bảo vệ.
Đối với con chung:
Khoản 2 Điều 17 quy định : “Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn”.Theo đó đối với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn thì quyền lợi của các con cũng được pháp luật bảo vệ giống như khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy, khi hai bên nam nữ bị Tòa tuyên bố không công nhận là vợ chồng thì họ vẫn có nghĩa vụ đối với con chung. Trường hợp con dưới 3 tuổi, Tòa án sẽ giao cho người mẹ nuôi.Căn cứ vào khoản 5 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.” Hai bên có trách nhiệm cấp dưỡng, hỗ trợ nhau nuôi con chung ( trong trường hợp này là con ngoài giá thú) trưởng thành; quan trọng là con chung trong trường hợp này cũng có quyền thừa kế hợp pháp khi người cha, người mẹ qua đời mà không để lại di chúc theo điều 676 Luật Dân sự năm 2005. Như vậy, ngay từ khi sinh ra, con ngoài giá thú được hưởng đầy đủ các quyền lợi như con trong giá thú, như quyền được khai sinh, quyền được mang quốc tịch…