Bước vào năm 2009, các doanh nghiệp công nghiệp điện tử của Việt Nam
đang đối mặt với cả hai khó khăn lớn cùng lúc: cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu
mức tối đa theo hiệp định tự do theo ngành (theo cam kết WTO) và cam kết mở
cửa thị trường bán lẻ, phân phối. Theo đó, sẽ bãi bỏ trợ cấp với hàng thay thế
nhập khẩu, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu, bãi bỏ các ưu đãi về thuế thu nhập DN.
Riêng cam kết chung quy định, giảm mức thuế nhập khẩu bình quân của sản
phẩm công nghiệp từ 16,1% xuống 12,6% trong vòng 5-7 năm; cắt giảm ngay
đối với các mặt hàng đang có thuế suất cao trên 20% và 30%, trong đó gồm
nhiều loại máy móc, thiết bị điện, điện tử. Những yếu tố trên sẽ tác động tích
cực, thúc đẩy DN trong nước huy động mọi nguồn lực, thay đổi công nghệ và
tăng sức cạnh tranh.
Theo một thống kê khác từ Bộ Công Thương, cơ cấu công nghiệp chế biến
trong công nghiệp điện tử trong nước chưa đạt 5%. Do vậy, trong tổng số doanh
thu gần 3 tỉ đô la Mỹ do ngành công nghiệp này mang lại, xuất khẩu đạt trên 2 tỉ
đô la Mỹ nhưng 95 - 98% doanh thu xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài - vốn chỉ chiếm 1/3 trong số 300 doanh nghiệp sản
xuất điện tử ở Việt Nam. Còn các sản phẩm điện tử của Việt Nam dù xuất khẩu
với số lượng lớn nhưng giá trị gia tăng lại rất thấp.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2725 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------
Công trình tham dự Cuộc thi
“Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng 2009”
Tên công trình: Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở
Việt Nam
Thuộc nhóm ngành: XH1a
Họ và tên sinh viên: Phạm Thùy Yên Nam/Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 8 – Kinh tế đối ngoại Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng
Họ và tên sinh viên: Lê Thảo Huyền Nam/Nữ: Nam Dân tộc: Kinh
Lớp: Nhật 1 - TCNHA Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng
Họ và tên người hướng dẫn: TS. Nguyễn Đình Thọ
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu ............................................................................................................ 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 4
2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 5
3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
5. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 5
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến ......................................................................... 5
7. Kết cấu của đề tài ......................................................................................... 5
Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử ................................ 6
1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu: ............................................... 6
2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu: ............................................. 7
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất điện tử
toàn cầu ở Đông Nam Á: .................................................................................. 8
3.1. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:................... 9
3.2. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á: ...... 11
3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á .. 16
3.4. Vị thế của Việt Nam ............................................................................. 19
4. Kinh nghiệm của một số nƣớc có nền công nghiệp điện tử phát triển .. 20
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan .................................................................. 20
4.2. Kinh nghiệm của Malaysia .................................................................. 23
Chƣơng 2: Thực trạng công nghiệp điện tử Việt Nam trƣớc và sau khi gia
nhập WTO .......................................................................................................... 26
1. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam (giai đoạn 2002 – đầu 2009) .................................................................. 26
1.1.Giai đoạn tiền WTO .............................................................................. 26
1.2.Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay) ........................................ 37
2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ... 47
2.1.Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ................... 47
3
2.2.Những khó khăn và hạn chế đối với ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam ............................................................................................................... 53
Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới ................................................................................................................. 60
1. Quan điểm và định hƣớng phát triển ....................................................... 60
1.1. Quan điểm phát triển ........................................................................... 60
1.2. Mục tiêu phát triển ............................................................................... 61
1.3. Định hƣớng phát triển ......................................................................... 62
2. Giải pháp phát triển ................................................................................... 64
2.1. Phát triển nguồn nhân lực ................................................................... 64
2.2. Giải pháp về công nghệ ........................................................................ 66
2.3. Giải pháp phát triển nghành công nghiệp phụ trợ. .......................... 68
2.4. Giai pháp về chính sách ....................................................................... 72
Kết luận ............................................................................................................... 75
4
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào năm 2009, các doanh nghiệp công nghiệp điện tử của Việt Nam
đang đối mặt với cả hai khó khăn lớn cùng lúc: cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu
mức tối đa theo hiệp định tự do theo ngành (theo cam kết WTO) và cam kết mở
cửa thị trường bán lẻ, phân phối. Theo đó, sẽ bãi bỏ trợ cấp với hàng thay thế
nhập khẩu, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu, bãi bỏ các ưu đãi về thuế thu nhập DN.
Riêng cam kết chung quy định, giảm mức thuế nhập khẩu bình quân của sản
phẩm công nghiệp từ 16,1% xuống 12,6% trong vòng 5-7 năm; cắt giảm ngay
đối với các mặt hàng đang có thuế suất cao trên 20% và 30%, trong đó gồm
nhiều loại máy móc, thiết bị điện, điện tử. Những yếu tố trên sẽ tác động tích
cực, thúc đẩy DN trong nước huy động mọi nguồn lực, thay đổi công nghệ và
tăng sức cạnh tranh.
Theo một thống kê khác từ Bộ Công Thương, cơ cấu công nghiệp chế biến
trong công nghiệp điện tử trong nước chưa đạt 5%. Do vậy, trong tổng số doanh
thu gần 3 tỉ đô la Mỹ do ngành công nghiệp này mang lại, xuất khẩu đạt trên 2 tỉ
đô la Mỹ nhưng 95 - 98% doanh thu xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài - vốn chỉ chiếm 1/3 trong số 300 doanh nghiệp sản
xuất điện tử ở Việt Nam. Còn các sản phẩm điện tử của Việt Nam dù xuất khẩu
với số lượng lớn nhưng giá trị gia tăng lại rất thấp.
Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Việt Nam cần phải
xây dựng những ngành sản xuất công nghiệp bền vững và phát triển. Một trong
những ngành sản xuất công nghiệp sẽ chiếm vị trí then chốt đó là công nghiệp
điện tử. Để từng bước xây dựng ngành công nghiệp điện tử phát triển. Với mục
tiêu tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần gia
tăng giá trị của ngành công nghiệp điện tử. Chúng tôi quyết định lựa chọn và
nghiên cứu đề tài - „‟ Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện
tử ở Việt Nam’’ với mong muốn từ những khó khăn trong thực trạng sản xuất
hàng điện tử từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy
ngành công nghiệp điện tử ngày càng phát triển.
5
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp công nghiệp điện tử ở Việt
Nam trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư của Việt
Nam, các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh
nghiệp nhà nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua những số liệu từ báo cáo thông kê của Bộ Công Thương và của
International business strategies tác giả đi sâu vào phân tích những yếu kém của
công nghiệp điện tử Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp đối với các cơ quan
quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất và các hiệp hội doanh
nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê và so sánh với các ngành sản xuất
công nghiệp khác, so sánh với nền công nghiệp điện tử của các quốc gia trong
khu vực và trên thế giới để tìm ra những giải pháp phát triển cho con đường của
công nghiệp sản xuất điện tử ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình của các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2004- 2008, và đưa ra những giải
pháp dự kiến để phát triển đến năm 2020.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đưa ra những giải pháp để xây dựng ngành công nghiệp điện tử trở thành
một trong những ngành then chốt với tổng kim ngạch lớn trong sản xuất công
nghiệp ở Việt Nam trên những điều kiện từ nguồn nhân lực, nguồn vốn hỗ trợ
của Nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài
Chƣơng 1 :Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử
Chƣơng 2 : Thực trạng sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam
Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới
6
Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công
nghiệp điện tử
1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
Khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu lần đầu tiên được các học giả Mỹ
đưa ra tại Hội nghị bàn tròn Berkeley về kinh tế quốc tế (BRIE) khi thực hiện
chương trình nghiên cứu sự phát triển kinh tế Đông Á, theo đó mạng lưới sản
xuất quốc tế toàn cầu là một kiểu cơ cấu phân chia chi nhánh quốc tế trong nội
bộ công ty do các công ty đa quốc gia tạo ra bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và chủ yếu phản ánh sự phân phối về mặt không gian, cơ cấu và các quan
hệ qua lại giữa chi nhánh của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia
có thế mạnh về sự phân chia dây chuyền định giá, đó là, sản xuất bán thành
phẩm ở một nơi, giao hàng ở nơi khác và gia tăng giá trị nhất định ở đó. Thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi phần của quá trình sản xuất được đặt ở các
nước khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm khác nhau của từng khu vực. Hầu hết
các thành phẩm được lắp ráp cuối cùng sẽ được giao đến các nước khác chứ
không phải ở những khu vực như vậy. Kiểu mạng lưới sản xuất này đảm bảo cho
sự hội nhập của kinh tế khu vực và sự phát triển của nền kinh tế hướng vào xuất
khẩu do tất cả các nước đều có lợi từ lợi thế cạnh tranh dựa vào phân công lao
động. Dĩ nhiên là tiến bộ hội nhập và việc dựa vào thị trường thứ ba để xuất khẩu
như vậy cũng phải gánh chịu một số phí tổn.
Theo quan điểm của Dieter Ernst, khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu
cố gắng phổ biến rộng hơn và có các hình thức sản xuất quốc tế hệ thống hơn và
phân mắt xích định giá thành nhiều công đoạn có thể có hoặc không đòi hỏi sự
bố trí công bằng. Khi sử dụng khái niệm này, chúng ta có thể phân tích cẩn thận
7
chiến lược toàn cầu hoá của các công ty, ví dụ như sắp đặt phần nào mắt xích
định giá ở đâu. Các công ty phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài tới mức độ nào,
điểm ưu việt của mạng lưới sản xuất liên công ty so với sản xuất trong nội bộ là
gì, việc kiểm soát những giao dịch này được tập trung hoá hay đa dạng hoá tới
mức nào, những bộ phận cấu thành khác nhau của mạng lưới sản xuất toàn cầu
này liên kết với nhau thế nào.
2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
a. Sự mở rộng các hoạt động sản xuất ở các vị trí địa lý khác nhau:
Mạng lưới sản xuất toàn cầu bao gồm toàn bộ các phần của khâu định giá,
không chỉ là khâu sản xuất. Một mạng lưới sản xuất toàn cầu không chỉ bao gồm
các giao dịch nội bộ công ty mà còn có cả các hình thức hợp tác: Nó liên kết các
chi nhánh, các công ty con, các liên doanh của các công ty hàng đầu với các nhà
thầu phụ, các nhà cung ứng, các nhà cung cấp dịch vụ và các đối tác trong liên
minh chiến lược với nhau…Mục tiêu chính của các mạng lưới này là cung cấp
các nguồn lực, năng lực và tri thức để các công ty dẫn đầu khoanh vùng một
cách nhanh chóng nhờ đó tăng thêm năng lực cho công ty.
b. Tính không đối xứng về vai trò của các công ty đứng đầu và các công ty con:
Các công ty dẫn đầu quản lý các nguồn lực của mạng lưới và đưa ra quyết
định. Các công ty dẫn đầu liên kết các cơ sở sản xuất, khách hàng, tri thức bị
phân tán về địa lý vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, điều này có thể làm giảm bớt
chi phí giao dịch. Theo ông, một mạng lưới sản xuất toàn cầu đặc trưng sẽ ràng
buộc một công ty đứng đầu, các chi nhánh của nó, các công ty con và các công
ty liên doanh, các nhà cung cấp và các nhà thợ phụ, các kênh phân phối, những
người bán lại, các liên minh R&D và rất nhiều thoả thuận hợp tác…với nhau. Nó
có thể có cổ phần bằng nhau hoặc không. Các công ty dẫn đầu được đặt ở trung
tâm của mạng lưới, đóng vai trò lãnh đạo về chiến lược và tổ chức, và có những
8
chiến lược ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các công ty thành viên
trong mạng lưới sản xuất. Thế mạnh của công ty dẫn đầu có được được từ việc
kiểm soát các nguồn lực và khả năng then chốt và hợp tác giao dịch giữa các khu
vực khác trong mạng lưới. Một trong những khả năng chủ chốt là tài sản trí tuệ
và tri thức để thiết lập, duy trì và tiếp tục nâng cao các chuẩn mực thị trường.
Chính vì những tài sản bổ sung như vậy mà các mạng lưới sản xuất toàn cầu có
tính không đối xứng.
c. Sự phổ biến tri thức từ các nước chủ đầu tư sang các nước nhận đầu tư:
Sự chia sẻ tri thức là sự cần thiết làm cho các mạng lưới này phát triển.
Lợi nhuận thực sự bắt nguồn từ sự phổ biến, trao đổi và tiếp nhận kiến thức và
năng lực bổ sung từ bên ngoài. Thường những nước hay khu vực có khả năng
trở thành một bộ phận cấu thành của mạng lưới sản xuất toàn cầu chính là những
nước đang công nghiệp hóa nhanh nhất.
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất
điện tử toàn cầu ở Đông Nam Á:
Sự tham gia của Đông Nam Á vào mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu là
yếu tố quan trọng trong việc thay đổi mô hình và gia tăng sự tham gia của khu
vực này vào thương mại quốc tế từ những năm 1980. Cụ thể là, ASEAN-5 ( gồm
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) là những nước có sự
tham gia vào các mạng lưới sản xuất của nhiều công ty như Intel ở Châu Âu,
Sony, Toshiba, Hitachi và Fujitsu của Nhật Bản, và vào những năm 1990 là các
hãng như Samsung và Goldstar của Nam Triều Tiên và Acer của Đài Loan. Khu
vực này trở thành cơ sở sản xuất của nhiều công ty đa quốc gia (MNC) và các
công ty xuyên quốc gia (TNC) cho thị trường khu vực mình tới phần còn lại của
9
Đông Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. Kết quả là sự mở rộng thương mại và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và gia tăng sự hội nhập kinh tế của khu vực.
Mạng lưới sản xuất toàn cầu lấy khu vực làm cơ sở là một đặc điểm đáng
chú ý của sự phát triển kinh tế Đông Nam Á kể từ thập niên 1980. Một số mạng
lưới toàn cầu như vậy đã được thiết lập dựa trên đầu tư FDI của các công ty TNC
nhưng chúng không chỉ đơn giản là việc mở rộng vốn đầu tư FDI ở Đông Nam
Á. Trong mạng lưới sản xuất toàn cầu, các công ty TNC đầu tư trực tiếp sẽ tổ
chức và hoạt động theo các phương thức rất khác biệt, trong khi đó các nhân tố
của hệ thống tại nước bản xứ cũng đồng thời ảnh hưởng đáng kể tên con đường
lựa chọn đầu tư của nước chủ nhà thông qua hình thức mạng lưới sản xuất toàn
cầu này. Sự đa dạng của nguồn vốn đầu tư FDI ở khu vực Đông Nam Á cũng thể
hiện cấu trúc đa tầng của hệ thống sản xuất dây chuyền xuyên quốc gia, đó là ở
Đông Nam Á tồn tại các mạng lưới sản xuất toàn cầu đa tầng tổ chức một cách
khác thường, nghĩa là một quá trình phát triển toàn cầu không giới hạn, làm suy
yếu tầm quan trọng của cơ cấu và mục tiêu phát triển kinh tế của nước bản xứ
của nhà đầu tư đối với lựa chọn chính sách của các nước công nghiệp hoá lạc
hậu. Ở đây, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Châu Âu và các
công ty TNC của Trung Quốc đều thiết lập các mạng lưới xuyên quốc gia đa
dạng, có phần chồng chéo nhau và có phần cạnh tranh nhau.
3.1. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á xuất hiện cùng
với FDI tại khu vực này, nhưng chúng chỉ bắt đầu hình thành từ những năm
1970. Công ty con ở Đông Nam Á của các công ty điện tử Mỹ thành lập như một
phần của hệ thống sản xuất xuyên quốc gia phục vụ cho thị trường các nước phát
triển từ lúc ban đầu. Các công ty Mỹ tập trung nguồn lực của họ vào việc phát
triển sản phẩm, liên kết hệ thống và phần mềm (những lĩnh vực này cho phép các
công ty của Mỹ thiết lập các tiêu chuẩn thực tế cho sản phẩm và giữ vững vị thế
10
của những người dẫn đầu trên thị trường). Dần dần các công ty con của họ tại
Đông Nam Á sản xuất chuyên môn hoá vào các bộ phận, linh kiện và các sản
phẩm cuối cùng, điều này không những cho phép công ty có thể sản xuất với chi
phí rẻ nhưng với năng suất cao mà còn tạo ra các đối thủ cạnh tranh Đông Nam
Á chống lại các công ty Nhật Bản trong cá lĩnh vực như chất bán dẫn, màn hình,
và các sản phẩm điện tử gia dụng v.v…
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Mỹ hoạt động theo chiều
dọc. Do các công ty con ở Đông Nam Á đã hội nhập vào mạng lưới sản xuất và
vận hành phục vụ cho các nước phát triển, các doanh nghiệp của Mỹ thực sự
hiện đại hoá các công ty tại Đông Nam Á dựa vào tình hình phát triển của thị
trường chính mà họ phục vụ mà chủ yếu là Mỹ. Nói cách khác, họ cập nhật công
nghệ dựa vào Mỹ chứ không phải là vòng đời sản phẩm tại địa phương. Do đó,
sau rất nhiều lượt đầu tư trực tiếp và cập nhật công nghệ, các công ty chi nhánh
của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển về công nghệ sản xuất, từ
đó cho phép nâng cao mức độ chuyên môn hoá công nghệ tại địa phương trong
hệ thống sản xuất toàn cầu của các doanh nghiệp Mỹ. Trong tình hình như vậy,
các hệ thống của Mỹ sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm điện tử công nghiệp
như ổ cứng, máy tính cá nhân., máy in phun, các thiết bị viên thông v.v… Các
mạng lưới sản xuất của Mỹ thành lập cá chi nhánh cung cấp lao động bổ sung,
trong đó các công ty của Mỹ chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
mềm nhất định (lựa chọn, tưởng tượng, thiết kế - xét về mặt tiêu chuẩn), trong
khi các công ty Đông Nam Á chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
cứng ( các bộ phận và linh kiện, các quy trình chế tạo và các thành quả thiết
kế/phát triển). Nói chung, các công ty Mỹ chuyển giao quyển quản lý và hoạt
động sản xuất có giá trị gia tăng đáng kể cho các công ty con Đông Nam Á.
Thực tế này tạo ra một hình thức phân chia lao động trong khu vực phức tạp,
thông qua hệ thống như vậy, các công ty con của Mỹ thực hiện quyền tự quản lý
11
sẽ tham gia vào các hoạt động sản xuất phức tạp. Do các công ty Mỹ chuyển
giao dây chuyền sản xuất làm gia tăng giá trị lớn từ Mỹ tới Đông Nam Á, các chi
nhánh của họ bắt đầu sản xuất linh kiện và bộ phận và các hệ thống phụ phức
tạp. Đầu những năm 1990, các công ty Mỹ đưa ra các chiến lược sản xuất khu
vực dựa vào sự chuyên môn hoá công nghệ nội bộ khu vực Đông Nam Á. Kết
quả là hình thành một hình thức cơ sở cung cấp của các công ty Mỹ, nhờ đó cho
phép các công ty Mỹ tránh dược việc dựa vào các công ty cạnh tranh Nhật Bản
cung cấp linh kiện, bộ phận quan trọng và công nghệ.
3.2. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á
bắt đầu xuất hiện từ những năm 1960 hay những năm 1970, phát triển nhanh và
tồn tại sau giữa những năm 1980. Trước những năm đầu của thập niên 1980, các
mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á nhìn chung có
đặc điểm tương đối chặt chẽ, là sự mở rộng trên phạm vi quốc tế của hàng loạt
các công ty nội địa của Nhật Bản. Nói chung, các công ty con tại nước ngoài của
Nhật Bản tiếp tục giữ hình thức tổ chức có thứ bậc của các công ty Nhật Bản
trong nước, trụ sở chính tại Tokyo nắm quyền quyết định chính và năng lực công
nghệ. Các hoạt động và vận hành của các công ty con tại nước ngoài chịu sự điều
khiển nghiêm ngặt của tổng hành dinh tại Tokyo và hình thành một loại hình sản
xuất đính kèm và các công ty có vốn đầu tư của Nhật Bản không nên thiết lập
qua hệ kinh doanh với các chi nhánh cung cấp không có chi nhánh của địa
phương và nước ngoài. Phân tích theo chuỗi giá trị có nghĩa là các công ty TNC
của Nhật Bản sắp xếp sản xuất và dây chuyền lắp ráp các sản phẩm cấp thấp ở
Đông Nam Á trong khi nắm giữ ở Nhật Bản dây chuyền sản xuất cuối cùng đem
lại giá trị gia tăng cao. Th