Đề tài Giá trị mỹ thuật thời Nguyễn

Mỹ thuật Việt Nam có vai trò đóng góp tích cực trong quá trình phát triển văn hóa dân tộc qua bao quá trình tiến hóa, có lúc mỹ thuật đã đóng vai trò ngôn ngữ để diễn đạt ý thức hệ của con người. Thời kỳ nguyên thuỷ là thời kỳ dài nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thời kì này tuy xã hội phát triển chậm chạp nhưng con người thông qua lao động cũng đã dần dần tiến đến đời sống thẩm mỹ. Tìm hiểu đề tài đó cũng chính là ta tìm về cội nguồn xưa với cáchoạt động sáng tạo của cha ông thời kì nguyên thủy này đã đặt những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng nghệ thuật tạo hình dân tộc sau này tiếp tục phát triển và đạt được những thành công đáng kể.

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2661 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giá trị mỹ thuật thời Nguyễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần dẫn luận 1 Lý do chọn đề tài Mỹ thuật Việt Nam có vai trò đóng góp tích cực trong quá trình phát triển văn hóa dân tộc qua bao quá trình tiến hóa, có lúc mỹ thuật đã đóng vai trò ngôn ngữ để diễn đạt ý thức hệ của con người. Thời kỳ nguyên thuỷ là thời kỳ dài nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thời kì này tuy xã hội phát triển chậm chạp nhưng con người thông qua lao động cũng đã dần dần tiến đến đời sống thẩm mỹ. Tìm hiểu đề tài đó cũng chính là ta tìm về cội nguồn xưa với cáchoạt động sáng tạo của cha ông thời kì nguyên thủy này đã đặt những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng nghệ thuật tạo hình dân tộc sau này tiếp tục phát triển và đạt được những thành công đáng kể. Lịch sử vấn đề Về mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam thì chưa một sách nào có thể phân định rõ về vấn đề này. Tuy nhiên, đã có một số tư liệu dựa trên những di chỉ qua khảo cổ tìm được, nêu lên một vài nét về giá trị mỹ thuật nguyên thủy này. Như sách Lược sử mỹ thuật của tác giả Nguyễn Phi Hoanh, đã nêu tổng quan về mỹ thuật cổ Việt Nam. Trong giáo trình Khảo cổ học Việt Nam, Đinh Ngọc Bảo( chủ biên), qua những di chỉ khảo cổ tìm được cũng có một vài nét nhận định về mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số tư liệu khác đề cập nhưng không sâu về vấn đề này. Mục đích nghiên cứu Chúng ta tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của mỹ thuật Việt nam, những loại hình nghệ thuật tạo hình xuất hiện sớm nhất. Trình độ phát triển của mỹ thuật nguyên thủy và những đặc trưng cơ bản của nó. 4 Đối tượng phạm vi nghiên cứu Ở bài viết này , tìm hiểu về những giá trị mỹ thuật của Việt Nam vào thời nguyên thủy. Ý nghĩa đề tài Qua đề tài này , tôi muốn nêu lên những giá trị nghệ thuật của thời nguyên thủy, mặc dù thời kì này còn rất ít tác phẩm nhưng qua đó cho ta biết được sự bộc lộ nhận thức, cảm nhận về thế giới xung quanh của người Việt cổ. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thống kê phân loại Phương pháp phân tích Phương pháp tổng hợp các tài liệu Ngoài những phương pháp trên thì còn sử dụng một số phương pháp khác để phục vụ cho bài việt này đạt kết quả tốt. Cấu trúc bài viết Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì bài viết này xin tập trung vào hai chương chính : Chương I : Sơ lược tình hình văn hóa- xã hội thời nguyên thủy Chương II : Những giá trị cơ bản của mỹ thuật Việt Nam thời nguyên thủy. Phần nội dung MỞ ĐẦU M ỹ thuật hiểu là "nghệ thuật của cái đẹp" ("mỹ", theo tiếng Hán-Việt, nghĩa là "đẹp", “thuật” chỉ cách thức). Đây là từ dùng để chỉ các loại nghệ thuật tạo hình chủ yếu là hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc, kiến trúc. Theo cách nhìn khác, từ "mỹ thuật" chỉ cái đẹp do con người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt người nhìn thấy được. Vì lý do này người ta còn dùng từ "nghệ thuật thị giác" để nói về mỹ thuật. Mỹ thuật là môn nghệ thuật có ngôn ngữ riêng, nó ra đời một cách ngẫu nhiên. Từ những hoa văn sơ khai ban đầu trên những dấu vết vật dụng dần dần nó mang độ khó dần và đẹp hơn. Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm. Gắn liền với quá trình lao động để tồn tại. người nguyên thủy đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thân. Nền mỹ thuật nguyên thủy ra đời từ đó. Những dấu vết đầu tiên của mỹ thuật nguyên thủy tìm thấy ở những vùng phía nam châu Âu, châu Á và một phần lãnh thổ rộng lớn của châu Phi. Ở Châu Âu thời nguyên thủy, giai đoạn nghệ thuật tạo hình phát triển đến trình độ cao là thời hậu kì đá cũ. Còn di chỉ đồ đá cũ ở Việt Nam ta phát hiện được đến nay như ở Núi Đọ ( Thanh Hóa) hay ở Trung đội, Yên- lương ( Ninh Bình )…, thì không có giá trị nhiềuvề mỹ thuật. Vào thời kì đồ đá giữa và đá mới, công cụ bắt đầu có tính chuyên môn và bắt đầu thể hiện sự ý thức về mỹ thuật như văn hóa Hòa Bình , văn hóa Bắc Sơn. Tuy mỹ thuật Việt Nam thời nguyên thủy không phát triển như ở trên thế giới nhưng qua các di chỉ tìm thấy được chính là những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng nghệ thuật dân tộc sau này. Tìm hiểu về những giá trị mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam , cũng chính là về với cội nguồn, để chúng ta có điều kiện tìm hiểu về những bước đi chập chững của tổ tiên ta khi xưa. Nội dung Chương I Sơ lược về tình hình văn hóa xã hội thời nguyên thủy Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định , là giai đoạn hình thành , phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam. 1 Thời kì đồ đá cũ 1.1 Văn hóa Núi Đọ Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40-50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn lại, chúng ta biết rằng người vượn (Hôm-Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng từ Bắc đến Nam. Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ( tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kì thời đại đồ đá cũ phát hiện ở Núi Đọ thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trên bề mặt Núi Đọ, các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn năm mảnh ghè (hay mảnh tước như các nhà khảo cổ học thường gọi), có bàn tay gia công của người nguyên thủy. Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay, loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất của người vượn. Di tích Núi Đọ thuộc về thời kì tổ chức xã hội đang bắt đầu hình thành cách đây khoảng 300.000 năm 1.2 Văn hóa Sơn Vi Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hóa Sơn Vi ( xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm TCN, con người đã cư trú trên một địa bàn rất rộng, họ là chủ nhân của nền văn hóa Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam, từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các đồi gò của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, người Sơn Vi còn sống trong các hang động núi đá vôi. Đây là các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt, nạo, hay cắt, có loại có cắt ngang ở một đầu, có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh, có loại công cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuộn, hoặc có lưỡi ở hai đầu. Có thể nói rằng , người Sơn Vi đã thuộc dạng người khôn ngoan và đã tiến lên một bước chuyển từ hình thái bầy người nguyên thủy sang hình thái xã hội công xã thị tộc mẫu hệ. Hoạt động kinh tế chính của người Sơn Vi là săn bắt hái lượm, cư trú trên một địa bàn rất rộng ở miền Bắc Việt Nam. 2 Thời kì đồ đá giữa Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hòa Bình. Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi. Họ thích cư trú trong các khu vực gần cửa hang, thoáng đãng, có ánh sáng. Môi trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang thung thềm sông suối. Vì thế, văn hóa Hòa Bình còn được gọi là nền văn hóa thung lũng. Văn hóa Hòa Bình kéo dài trong khoảng 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay. Người Hòa Bình sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm, song do đặc điểm của hệ sinh thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới, phương thức săn bắt và hái lượm của người tiền sử là theo phổ rộng, lượm trong rừng đủ thứ có thể ăn và sử dụng được. Mặt khác do môi trường không thuận lợi cho hoạt động săn bắt nên phương thức sống của cư dân Hòa Bình chủ yếu là hái lượm. Di vật chủ yếu của văn hóa Hòa Bình là đồ đá, đồ xương và một số ít đồ gốm. Đồ đá trong văn hóa Hòa Bình có nhiều loại, không kể các loại đá nguyên liệu, hòn kê, đập, còn có các loại như công cụ chặt, rìu ngắn, chày nghiền, bàn nghiền,công cụ mũi nhọn, nạo. Công cụ mài chiếm số lượng ít nhưng sự tồn tại của các loại công cụ mài tròng Văn Hóa Hòa Bình đã khẳng định kĩ thuật mài đá ra đời trong văn hóa Hòa Bình. Hiện nay, phần lớn các nhà khảo cổ Việt Nam đều thống nhất: Văn hóa Hòa Bình có niên đại địa chất Toàn tân, vào giai đoạn chuyển từ thời đá giữa sang thời đại đá mới. Con người thời kỳ này thường làm lều, nhà cửa ở Hang gần sông suối. Bên cạnh các công cụ Lao động bằng đá còn tìm được các công cụ, vũ khí bằng tre, nứa, xương, sừng rất phong phú. Đồ trang sức bằng vỏ sò, ốc, xương thú. Điều này cho thấy cuộc sống của các bộ lạc người Việt Cổ đã phát triển thêm một bước. Cùng với săn bắn, hái lượm, con người đã biết trồng trọt. Nền văn minh nông nghiệp bắt đầu được hình thành. Tín ngưỡng tôn giáo bắt đầu xuất hiện với hình thức sơ khai nhất : tô tem giáo (thờ vật cổ). Và để tiếp tục cuộc đời, văn hóa Hòa Bình đã dẫn đưa nhanh chóng đến một nền văn-hóa nổi danh thế giới của Việt Nam cổ là văn hóa Bắc Sơn. Thời kì đồ đá mới Văn hóa Bắc Sơn mang tên huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, nơi phát hiện di tích đầu tiên của văn hóa này. Chủ nhân Văn hóa Bắc Sơn cư trú trong hang động. Các hang động đều cao ráo, gần nguồn nước. Di vật của văn hóa Bắc Sơn gồm các loại đồ đá, đồ gốm, đồ xương.Đồ đá gồm các loại, rìu mài lưỡi, công cụ ghè đẽo, bàn mài… Đáng chú ý là sự vắng mặt của loại rìu ngắn kiểu Hòa Bình trong văn hóa Bắc Son nhưng các công cụ ghè đẽo trong văn hóa Bắc Sơn lại gần với công cụ ghè đẽo kiểu Hòa Bình. Gốm Bắc Sơn nặn bằng tay, thô , dày , độ nung thấp dễ vỡ, các mảnh gốm thường nhỏ khó xác định kiểu dáng. Phương thức hoạt động kinh tế của chủ nhân văn hóa Bắc Sơn vẫn là hái lượm và săn bắt. Nếu như nông nghiệp sơ khai trong văn hóa Hòa Bình được nhìn nhận qua các chứng cứ gián tiếp, thì trong văn hóa Bắc Sơn vấn đề này được tiếp cận rõ hơn thông qua các loại di vật, như loại rìu mài lưỡi, một số được xem như là công cụ xới đất trong hoạt đông nông nghiệp sơ khai. Cây trồng quan trọng và chủ yếu chính là cây lúa. Đời sống vạt chất phát triển, kéo theo sự phát triển cảu đời sống tinh thần. Đồ trang sức được chế tác nhiều chất liệu phong phú như Đá, đất nung, vỏ trai,..và nhiều thể loại khác nhau như : vòng tay, vòng cổ, khuyên tai,.. Điều này chúng tor nghề thủ công đã rất phát triển. Ngoài việc chế tạo công cụ lao động, công cụ gia đình, đồ trang sức, đồ gốm, con người kỳ này còn biết dệt vải. Trong các mộ cổ được khai quật và qua cách chôn người chết, chúng ta có thể hiểu thêm nhữn quan niệm người việt cổ về cuộc sống sau khi chết của con người. Trong ngôi mộ chúng ta đã tìm được nhiều xương sọ và các xương khác được tô màu đỏ cùng các vật dụng, công cụ lao động. Điều đó cho thấy trong tư duy của người Nguyên Thuỷ đã hình thành quan niệm về một thế giới khác tồn tại chỉ khi con người từ giã cuộc sống ở thế giới đó con người vẫn làm ăn sinh sống như thế giới thực tại. Quan hệ Hòa Bình- Bắc Sơn và các văn hóa Hậu kì thời đá mới ở Việt Nam đã xác nhận vai trò của văn hóa Bắc Sơn trong lịch sử thời đại đá ở Việt Nam Chương II Giá trị mỹ thuật thời nguyên thủy 1 Hội họa Cùng với lao động, với cái có ích, với cái đẹp cũng dần xuất hiện. Trải qua một thời gian lâu dài đến thời kỳ đồ đá giữa, con người đã bắt đầu sáng tạo ra những hình khắc đầu tiên, mở đầu cho một nền mỹ thuật phát triển sau này. Năm 1926, nhà khảo cổ học người Pháp, Ma- Đô- Len- Cô La Ni, đã đổ nhiều tâm sức nghiên cứu về nền văn hóa Hòa Bình. Văn hóa Hòa Bình được xếp với thời kì đồ đá giữa và trong thời kì này chúng ta đã tìm được những dấu hiệu mỹ thuật đầu tiên. Mặc dù đó chỉ là những hình khắc đơn giản về nội dung và bằng trình độ tạo hình sơ khai. Thời kì này con người vẫn ở trong hang động nên nghệ thuật ở đây chính là nghệ thuật hang động. Các hình khắc trong hang động nơi thuộc xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, có những hình vẽ, tác phẩm hoàn thiện và độc lập. Trên vách đá lớn đi vào hang Đồng Nội có bốn hình khắc với nét sâu và to. Trong đó, có 3 hình mặt người và một hình mặt thú. Mặt người ngoài cùng, có lẽ do mưa nắng nên đến nay chỉ còn một nửa. Ba hình khắc được xếp thành một nhóm. Mặt to nhất với kích thước 31 cm. Các chi tiết mặt mũi riêng rõ rang cân đối. Nét khắc dứt khoát, khỏe, khuôn mặt vuông vức, đôi mày rậm gợi cho người xem cảm giác đây là chân dung người đàn ông. Hai mặt người hai bên có đặc điểm tạo hình khác với hình ở giữa. Hình bóng (cao 13 cm rộng 18cm) nét khắc mảnh và mềm mại hơn. Nét cong của khuôn mặt được thể hiện rõ gợi khuôn mặt nữ hơn. Nét cong của chi tiết của nét mặt, mũi, miệng gần nhau. Đặc biệt phía trên đầu của 3 hình khắc đều có hình gần giống chữ Y. Hình này gợi nhớ đến hình sừng thú, có giả thuyết cho rằng đây là một cách hóa trang của người Việt cổ để có thể lại gần các con thú. Cũng có thể là một nghi lễ với một hình thức thờ phụng gì đó cả người Việt cổ. Nhóm thứ 2 là hình khắc mặt thú có kích thước to nhất ( cao 57 cm, rộng 51cm) với đặc điểm miệng rộng, mắt tròn, cái mũi to và có sừng. Dưới miệng các nghệ nhân còn khắc 2 rạch dọc, tạo được sự cân bằng cho bố cục.Dưới miệng các nghệ nhân còn khắc 2 rạch dọc, tạo được sự cần bằng cho bố cục. Bốn hình khắc ở hang động Đồng Nội một mặt chứng tỏ tư duy hình tượng và nghệ thuật của người Việt thời nguyên thủy đã tiến thêm một bước. Từ những hình đơn giản độc lập đã tiến thêm một bước có ý thức. Chỉ qua bốn hình khắc đơn giản nhưng chúng ta có thể suy đoán về con người và cuộc sống Nguyên thủy khi xưa.Có thể nói đó là tác phẩm duy nhất của nghệ thuật tạo hình trong nền văn hóa Hòa Bình và có lẽ là tác phẩm nghệ thuật tạo hình cổ nhất được phát hiện tại Việt Nam tính đến thời điểm. Trong đợt điều tra khảo cổ học ở tỉnh Hà Giang vào đầu tháng 12/2004, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Hà Giang đã phát hiện di tích bãi đá có hình khắc vẽ thời tiền sử ở xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Khu vực có di tích bãi đá nằm trong một thung lũng rộng, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc. Trên bề mặt thung lũng có nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm ngổn ngang dọc dòng suối. Bề mặt các tảng đá này thường khá bằng phẳng. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trên một số tảng đá có hình khắc vẽ. Đặc biệt là trên một tảng đá to có diện tích bề mặt hơn 30m2 ở khu Nà Lai Shứ (tiếng địa phương có nghĩa là khu ruộng có hình vẽ chữ) đã phát hiện hơn 40 hình khắc vẽ cổ. Ở hang động Lan Gan ( Hoà Bình), người ta tìm được mũi dùi làm từ xương thú. Hình sống các lá mọc so le đan thành hình ngọn cây được khắc ở đầu nhọn của mũi dùi . Mặc dù rất nhỏ, song hình lá được khắc rõ, chi tiết. Bốn trong sáu chiếc lá còn lại còn khắc cả đường gân song song. Những hình khắc đó vừa mang lại vẻ đẹp cho mũi dùi, lại còn có tác dụng về mặt kỹ thuật. hay nói cách khác ở thời kỳ sơ khai của nghệ thuật tạo hình dân tộc, mỹ thuật luôn chỉ dùng cái có ích, hình chạm với công cụ lao động một cách hữu cơ và tạo nên một nền tổng thể. Trên các di chỉ tìm được ta có thể phân thành một số nhóm họa tiết : Nhóm thứ nhất là những họa tiết hình học như hình tròn, hình tam giác, hình thang. Đây là mô típ họa tiết giữ vai trò chủ thể. Những hình tròn ở đây thường là những vòng tròn đơn. Có hình tròn có 4 tia ở xung quanh có thể là biểu tượng mặt trời. Nhóm thứ hai là những họa tiết hình bàn chân người. Những bàn chân thường là những bàn chân phải của người lớn và trẻ em, với kích thước to gần như thật, những ngón chân được khắc lõm sâu vào trong đá. Đây là mô típ thể hiện được xem là rất cổ trong nghệ thuật tiền sử. Nhóm thứ ba là những biểu tượng sinh thực khí, chủ yếu là những biểu tượng nữ tính với hình tam giác có rãnh dọc ở giữa. Nhóm thứ tư là họa tiết hình người được thể hiện trong tư thế giơ tay, dạng 2 chân như chúng ta thường thấy trong các bích họa hang động thời tiền sử. Nhóm thứ năm là những hồi văn hình vuông và hình tròn. Nhóm thứ sáu là những hình khắc chưa xác định được hình dáng và ý nghĩa thể hiện. Để tạo những hình này, người xưa đã sử dụng kỹ thuật rất thô sơ là đục khắc trực tiếp trên bề mặt tảng đá. Những nét khắc chạm này thường có bề rộng khoảng 2cm, sâu chừng 1cm. Qua các mô típ họa tiết được thể hiện những hình khắc vẽ này còn mang tính biểu tượng, ước lệ, nhưng đó là những sáng tạo nghệ thuật tạo hình thời tiền sử. Như chúng ta đã biết, từ nhận thức cái đẹp đến sáng tạo nghệ thuật là cả một quá trình lâu dài trong lịch sử nhân loại. Chủ nhân của những hình khắc vẽ Xín Mần đã có khái niệm về thẩm mỹ, về cái đẹp bản năng trong đời sống thiên nhiên, trong sinh hoạt cộng đồng và đã thể hiện chúng trên đá. . Đây là một di tích quan trọng, có giá trị lớn về nghệ thuật tạo hình của tổ tiên ta, là di sản văn hóa của nhân dân ta. Những thể hiện hình người còn rất thô sơ như hình vẽ của trẻ lên ba, lên bốn, lần đầu tiên cầm than vẽ theo cảm tính. Nếu hỏi tại sao trong những di tích tạo hình còn thô sơ như thế mà qua thời gian sau ấy, đến thời văn hóa Đông Sơn lại vươn lên một trình độ nghệ thuật cao thì vẫn chưa có câu trả lời. 2 Điêu khắc Ở Việt Nam, người nguyên thủy đặc biệt trong thời kì đồ đá mới.Họ có kỹ thuật chế tạo đồ đá, đồ gốm tương tự như nhau Ở thời nguyên thủy, chúng ta chưa thấy những di chỉ tạc đá ở trình độ khá. Thời gian gần đây, tại di chỉ Văn Ðiển, người ta phát hiện một tượng đá bé bằng ngón tay út chúng ta, tạc hình người. Tượng tròn bé này cũng là tượng tròn hình người bằng đá độc nhất của người nguyên thủy tìm được ở nước ta đến nay, gọi là “ Người đàn ông ở Vân Điển”, cao 3,6cm. Người ta còn phát hiện viên đá cuội dài dài 10cm ở Đông Kỳ ( Thái Nguyên),tác phẩm thì đơn giản. Mặt này là những hình họ, chủ yếu là hình vuông, được sắp xếp như một mặt người theo kiểu kỷ hà. Mặt kia là một chân dung người đã chỉ nét mắt, mũi, miệng được tạo bởi những chấm chấm. Tuy sự thể hiện còn rất đơn giản, tỉ lệ chưa chuẩn xác, nhưng hình chạm ở đây đã có biểu cảm. Một số tác phẩm còn thể hiện ở tính trang trí và tượng trưng như tác phẩm bằng đất sét vàng (10 x 4 x 0,7 cm ) tìm thấy ở Nghinh Tắc (Thái Nguyên). Bố cục trên bề mặt tác phẩm được chia làm hai phần. Phía ngoài là 15 nhóm khắc vạch xếp xung quanh. Mỗi nhóm có 34 vạch khắc. Bên trong được bố trí thành 8 đường song song. Mỗi đường được tạo nên bởi những hình giống chữ kể liên tiếp. Nhìn vào tác phẩm này có thể gợi cho chúng ta liên tưởng đến một khu vườn, một mảnh ruộng với những hàng cây đều đặn và hàng rào xung quanh. Tuy vậy mọi sự áp đặt so sánh đều không chính xác, đôi khi còn giảm giá trị nghệ thuật. Nhưng vượt lên tất cả những điều đó, tác phẩm đã cho chúng ta thấy một khẳ năng tạo hình, trang trí của người Việt Nguyên thuỷ . Cho dù nó biểu hiện cái gì nhưng có một điều rõ ràng là ở đây có sự sắp xếp các mảnh khắc vạch cân đối, thuận mắt thuận nhìn với ý thức bố cục cụ thể, Điều này dễ nhận thấy khi ta quan sát tác phẩm. 3 Hoa văn trên Đồ gốm nguyên thủy Việc biết dùng ngũ cốc là thức ăn là một cuộc cách mạng trong xã hội nguyên thủy. Chẳng những nó cho phép con người có thể định cư mà còn thay đổi nếp sống và dụng cụ thường dùng. Những khí giới bằng đá không đủ cho đời sống hàng ngày nữa, người ta còn cần có nồi, niêu, chum, vại để nấu, đựng thức ăn; do đó, đồ gốm ở nước ta được chế tạo ra rất sớm để đáp ứng nhu cầu đời sống. Việc chế tạo ra đồ gốm là một sự kiện hết sức quan trọng trong đời sống của người nguyên thủy; và trong việc chế tạo này, tổ tiên ta mới có điều kiện phát triển khả năng về trang trí và tạo hình. Từ thời nguyên thủy xa xôi, nghề đan lát đã phát triển ở nước ta, do nguyên liệu tre nứa rất dồi dào. Những người làm đồ gốm đầu tiên, khi chưa biết dùng bàn nặn xoay, thì thường đan khuôn bằng nan tre theo hình nồi, niêu, chum, vại rồi trát một lớp đất sét dày mỏng tùy theo ý muốn đồ gốm dày hay mỏng. Khi đất khô, người thợ đem nung cho cháy khuôn nan và chín đất. Ở di chỉ Minh Cầm (gần Lạng Sơn), di chỉ Bầu Tré (Bình Trị Thiên),... người ta thấy những mảnh gốm có dấu khuôn đan. Trong buổi đầu của nghề làm đồ gốm, người nguyên thủy ở Việt Nam đã tìm ra được hình dáng vò, vại, chum, nồi hợp lý. Hình dáng các vật ấy, người thợ gốm ngày nay không làm khác mấy. Khuôn đan in vào vại, vò lúc còn ướt thành một thứ hoa văn trang trí. Ðến khi trình độ nghệ thuật của người thợ đồ gốm đã khá, người ta không dùng khuôn đan nữa, song vì quen mắt và yêu cầu thẩm mỹ, người ta vẽ bằng que hay dập hoa văn phỏng theo dấu in của khuôn đan. Dần dần hoa văn t
Luận văn liên quan