Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một cách khách quan gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
"Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
27 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2184 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
I. Giai cấp là gì? 2
II. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp. 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5
I. Lí luận chung 5
II. Vấn đề giai cấp ở Việt Nam 11
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 24
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Giai cấp là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một cách khách quan gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
"Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
II. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp.
Nguồn gốc giai cấp.
Trong xã hội có nhiều nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng những đặc trưng khác nhau: tuổi tác, giới tính, dân tộc, chưng tộc, quốc gia, nghề nghiệp… Trong những sự khác nhau đó, có một số là do nguyên nhân tự nhiên, một số khác là do nguyên nhân xã hội. Những sự khác biệt đó tự nó không sản sinh ra sự đối lập về xã hội. Chỉ trong những điều kiện xã hội nhất định mới dẫn đến sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân kinh tế.
Sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên đã dẫn tới sự phân công lại lao động trong xã hội: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, sản xuất thủ công cũng dần dần trở thành một ngành tương đối độc lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Với lực lượng sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình thức sản xuất có hiệu quả hơn. Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra trở thành tài sản riêng của từng gia đình. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và dần dần thay thế sở hữu cộng đồng nguyên thuỷ. Chế độ tư hữu ra đời dẫn tới sự bất bình đẳng về t ài sản trong nội bộ công xã. Xã hội phân hoá thành những giai cấp khác nhau, giai cấp bóc lột thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. Như vậy, sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Sự hình thành giai cấp diễn ra theo hai con đường:
- Thứ nhất, sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
- Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc không bị giết như trước mà bị biến thành nô lệ.
Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chế độ chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát triển cuối cùng và cao nhất của xã hội có giai cấp.
Kết cấu giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế - xã hội này thay thế hình thái kinh tế - xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản và không cơ bản. Những giai cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng và cuộc đấu tranh của các giai cấp đó biểu hiện mâu thẫun cơ bản của phương thức sản xuất đã sinh ra chúng.
Bên cạnh những giai cấp cơ bản, trong kết cấu giai cấp còn có giai cấp không cơ bản. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là những nông trị do có ít ruộng đất. Trong xã hội phong kiến, đó có thể là giai cấp nô lệ và chủ nô với tư cách tàn dư của xã hội củ; là giai cấp tư sản ra đời trong lòng xã hội phong kiến. Trong xã hội tư bản, những giai cấp không cơ bản là giai cấp địa chủ với tư cách là tàn dư, giai cấp nông dân.
Cùng với sự phát triển sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp - xã hội cũng có những biến đổi nhất định. Những sự biến đổi ấy dẫn đến sự thay đổi địa vị của các giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trong kết cấu của xã hội có giai cấp, ngoài các giai cấp đối kháng còn có tầng lớp trí thức làm công việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trí thức không phải là một giai cấp. Nó được hình thành từ những giai cấp khác nhau và cũng phục vụ những giai cấp khác nhau.
Phân tích kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu địa vị, vai trò và thái độ chính trị của mỗi giai cấp đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Lí luận chung
Các quan điểm trước Mác về vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp.
.Một số quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng
Cơlêdơ Xanh Ximông (1760-1825)
- Là người đầu tiên đề cập, luận giải cho lí thuyết về giai cấp.Ông tự tuyên bố là người phát ngôn của giai cấp cần lao và giải phóng giai cấp ấy là mục đÝch cuối cïng của những nỗ lực mà «ng thực hiện trong cuộc đời.
Sáclơ Phuriê (1772-1837)
- Phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ông dự đoán văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội mới mà ông gọi là " chế độ xã hội được đảm bảo" hay " xã hội hài hòa".
Rôbớt Ôoen (1771-1858)
- Chủ trương xo¸ bỏ tư hữu, vốn là nguyên nhân của những bất công và tệ nạn xã hội trong xã hội tư bản.
- Khng thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của chủ nghĩa duy lý và chân lý vĩnh cửu của triết học thời kỳ cận đại.
- Hầu hết đều có khuynh hướng đi theo con đường ôn hòa.
- Không thể phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nguyên nhân.
- Phương thức sản xuất TBCN chưa phát triển đầy đủ, chưa bộc lộ hết những mâu thuẫn nội tại và những mặt trái cơ bản của nã.
- Giai cấp công nhân hiện đại chưa đủ trưởng thành để trở thành giai cấp tiên phong.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các hình thức cộng đồng người trong lịch sử
Thị tộc:
+ Định nghĩa: Cộng đồng người cã cïng một huyết thống; là một đơn vị sản xuất.
+ Đặc điểm: - Kinh tế: quyền sở hữu chung về TLSX và tài sản cùng lao động, sản phẩm được chia đều.
- Chính trị : lãnh đạo là hội đồng thị tộc. Đứng đầu là tộc trưởng.
- Xã hội : vai trò của người phụ nữ có một vị trí đặc biệt, lực lượng sản xuất phát triển, hình thức thị tộc phụ quyền thay thế mẫu quyền.
Bộ Lạc:
+ Định nghĩa : Tập hợp dân cư tạo thành từ nhiều thị tộc, do các mối quan hệ huyết thống, hôn nhân.
+ Đặc điểm : - Kinh tế: xuất hiện thêm những hình thức sở hữu khác so với thị tộc.
Đặc trưng : - Kinh tế: sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời.
Dân tộc
+ Định nghĩa: Cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc liên kết mọi bộ tộc sống trên cùng một lãnh thổ.
+ Đặc điểm: phát triển nền kinh tế thị trường dẫn đến dân tộc có những đặc điểm chung thống nhất rất chặt chẽ.
Giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Cũng có nhiều nhà kinh tế học tư sản như: Chie, Ghiđô, Minhê, … của xã hội học tư sản hiện đại cũng đã phát kiến và luận giải về giai cấp nhưng xét đến cùng cũng chỉ là sự giải thích mơ hồ về giai cấp và lãng tránh các vấn đề cơ bản về giai cấp và quan hệ giai cấp.
Và chỉ có đến với triết học Mác-xít, đứng trên quan diểm duy vật và lịch sử, gắn liền giai cấp với phương thức sản xuất với quan hệ sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định thì mới hiểu rõ được giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” của Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là tập đoàn người, chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa trên cho thấy các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định do chế độ đó sản sinh ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử.
Ñeå hieåu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể, phaûi đặt nó trong hệ thống, trong mối quan hệ với giai cấp đối lập. Bản chất của giai cấp thể hiện ở sự khác nhau về địa vị giữa các tập đoàn người trong hệ thống kinh tế – xã hội nhất định. Sự tồn tại của giai cấp gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất vật chất xã hội, gaén lieàn vôùi nhöõng phöông thöùc saûn xuaát nhất định. Trong một hệ thống kinh tế – xã hội có giai cấp, neáu taäp đoàn người này nắm
Nguồn gốc giai cấp: Những kẻ cã chức cã quyền trong thị tộc, bộ lạc dùng quyền lực chiếm đoạt TLSX, trở thành giai cấp thống trị.
- Tï binh bắt được trong các cuộc chiến tranh bị biến thành nô lệ.
Kết cấu giai cấp:
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay đều luôn tồn tại hai giai cấp cơ bản đối kháng gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ; ñòa chuû vaø noâng noâ trong cheá ñộ phong kiến; tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế độ kinh tế – xã hội vừa là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Trong đó, giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế, xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội còn có giai cấp không cơ bản.
Như đã đề cập ở trên thì còn có các tầng lớp trung gian, là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Nó không giữ địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất đang tồn tại và rất dễ bị phân hóa, gia nhập vào giai cấp thống trị hoặc rơi vào các địa vị giai cấp bị trị. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, taàng lôùp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản.
Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế – xã hội – chính trị – văn hóa, nếu là tầng lớp tri thức. Một câu hỏi đặt ra, vậy tri thức có phải là một giai cấp hay một tầng lớp đặc biệt đứng ngoài giai cấp. Tri thức là khái niệm dùng để chỉ những người làm nghề thuộc về lao động trí óc chứ không phải là khái niệm dùng để chỉ giai cấp. Bản thân một tri thức nào đó cũng xuất thân từ một giai cấp nhất định. Đó chỉ là xuất thân của một tri thức.
Ðấu tranh giai cấp
Ðịnh nghĩa:
Lê Nin định nghĩa: "Các cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền bị áp bức và lao động, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản ch.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là quan hệ trái ngược nhau về địa vị, lôïi ích cả kinh tế lẫn tinh thần. Quan hệ đó dẫn đến mâu thuẩn giữa thống trị và bị trị; giai cấp bức và bị áp bức; giữa bóc lột và bị bóc lột. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động của họ mà họ còn bị áp bức về chính trị, xaõ hoäi, tinh thần. Vì có áp bức giai cấp nên tất yếu có đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy mà Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp là: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bò áp bức và lao động chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Do vậy, thực chất của cuộc dấu tranh để giải quyết mâu thuẫn và một lợi ích của giai cấp bị thống trị ;bị bóc lột, bị áp bức, chống lại sự bóc lột, áp bức của giai cấp thống trị. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý để tránh hiểu nhầm rằng, giai caáp bị trị, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị không phải là chống lại sự thống trị của giai cấp thống trị mà chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Còn việc giai cấp nào nắm giữ địa vị thống trị đó là do lịch sử quyết định. Chẳng hạn, giai cấp công nhân tuy giữ địa vị thống trị nhưng không hề áp bức hay bóc lột giai cấp khác trong xã hội.
Không có cái gì tự nhiên mà có cả, nếu mâu thuẫn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp thì nguyên nhân khách quan đó là sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội đó là mâu thuẫn giai cấp lao động bị thống trị, bóc lột, áp bức. Bởi vì giai cấp lao động luôn là lực lượng sản xuất chính của xã hội nên nó đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bọ;hiện đại. Trong khi giai cấp thống trị, bóc lột thì lại dùng sức mạnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, kể cả bạo lực để bảo vệ chế độ đương thời luôn đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
Các giai cấp bóc lột của các hình thái xã hội khác nhau cũng có thể đối kháng về lợi ích như giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến. Nhưng trước sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột, chúng đã liên kết với nhau. Do đó, thực chất của đối kháng giai cấp là đối kháng lợi ích giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột.
Đấu tranh giai cấp không chỉ đơn thuần là giải quyết các mâu thuẫn đối kháng giữa các tầng lớp, giai caáp thoáng trị và bị trị trong xã hội mà đấu tranh giai cấp lại có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, chính là năng lực phát triển của xã hội có giai cấp.
Vai trò
- Ðấu tranh giai cấp là một trong những động lực phat triển của xã hội có giai cấp.
- Ðấu tranh giai cấp sẽ dần dần cách mạng xã hội, thay thế PTSX cũ bằng PTSX mới tiến bộ hơn sự phát triển của sản xuất xã hội.
- Góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu. Cải tạo đồng thời giai cấp cách mạng.
II. Vấn đề giai cấp ở Việt Nam
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giai cấp, đấu tranh giai cấp.
- Cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng dân tộc phải như " đôi cánh của một con chim"
- Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Nguyên nhân của cuộc đấu tranh vô sản:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cũng xuất phát từ mâu thuẫn đối kháng. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân cà giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác bị giai cấp tư sản thống trị, bóc lột; giai cấp tư sản nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội nên nắm luôn quyền tổ chức quản lý, đặc biệt là nắm luôn quyền định đoạt thu nhập cho người lao động. Toàn bộ giá trị thặng dư do người công nhân làm ra thì lại bị nhà tư bản chiếm không, trong khi nhà tư bản chỉ cho người lao động hưởng một mức thu nhập tối thiểu để họ có thể sống và tiếp tục làm việc cho họ chứ không để cho người lao động có cơ hội làm giàu. Chính vì vậy, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích kinh tế xuất hiện. Khi bị áp bức, bóc lột quá mức buộc người công nhân phải đứng dậy đấu tranh. Nếu xét theo quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ta thấy khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển cao thì cũng có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao hơn, trong khi quan hệ sản xuất vẫn mang tính tư nhân đậm nét mà cụ thể là quan hệ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cuộc đấu tranh này xóa bỏ quan hệ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ mọi điều kiện tồn tại của sự phân chia xã hội thành giai cấp.
bản ngày một cao nhưng vẫn không là thay đổi bản chất của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước đây công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì khi trình độ tri thức cao, họ lại bán lao động trí óc cho nhà tư bản và cuối cùng thì họ cũng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Do đó, dù CNTB có phát triển mạnh đến đâu thì cũng không thể làm thay đổi bản chất bóc lột của nó và nhất định đến một lúc nào đó, khi mà giai cấp công nhân đã thực sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng thì họ sẽ tiến hành cách mạng vô sản để lật đỗ giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà đặc biệt là quan hệ sản xuất tư bản đã lỗi thời.
Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
- Mối quan hệ giữa giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Lợi ích của công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
Tính chất:
- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh triệt để nhất, saâu saéc nhaát, roäng lớn, phức tạp, lâu dài nhất và n1o tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Nó phức tạp và lâu dài ở chỗ nó phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ để giành chính quyền về tay nhân dân và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cả hai cuộc cách mạng trên đều diễn ra gay go và phức tạp.
- Trước khi giành được chính quyền thì nội dung của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tu sản là đấu tranh kinh tế, tư tưởng và chính trị để giành chính quyền về tay giai cấp vô sản.
- Sau khi nền chuyên chính vô sản được ra đời thì mục tiêu và hình thức đấu tranh cũng thay đổi. Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh này là xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, cheá ñoä môùi hôn haún phöơng thức sản xuất, chế độ xã hội đã qua. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, đảm bảo tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Đó vừa là mục tiêu đồng thời là nhân tố đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp công nhân nước ta luôn là giai cấp tiên phong với sứ mệnh lịch sử to lớn
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: " Lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Ðảng cộng sản VN, giai cấp đại diện cho phuong thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…"
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta hiện nay:
Cuoäc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta có đặc trưng là gắn liền và được tiến hành ngay sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, ñaáu tranh giai caáp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu