Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt cua cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị , xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản và giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước.Lợi ích của giai cấp thống trị cơ bản khác với lợi ích của giai cấp bị trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đâu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là một hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.
20 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4494 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giai cấp và vấn đề giai cấp ở việt nam hiện nay
I./. Đặt vấn đề:
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt cua cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị , xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản và giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước.Lợi ích của giai cấp thống trị cơ bản khác với lợi ích của giai cấp bị trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đâu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là một hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.
II./.Giải quyểt vấn đề.
Trước Mác đã có những quan điểm về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Mở đầu là Cơlêdơ Xanh Ximông(1760-1825) là người đầu tiên đề cập, luận giải cho lí qhuyết về giai cấp. Ông tự nhận là người phát ngôn cho của giai cấp cần lao và giải phóng giai cấp ấy là mục đích cuối cùng của những nỗ lực mà ông thực hiện trong cuộc đời. Sáclơ Phuriê (1772-1837) phất hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ông đự đoán văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội mới mà ông gọi là “ chế đọ được đảm bảo” hay “xã hội hài hoà”. Rôbớt Ôoen (1771-1858) chue trương xoá bỏ tư hữu, vốn là nguyên nhân của những bất công và tệ nạn xã hội trong xã hội tư bản. Những quan điểm đó không thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của chủ nghĩa duy lý và chân lý vĩnh cửu của triết học của thời kỳ cận đại, hầu hết họ đều có khuynh hướng đi theo con đuờng ôn hoà, không thể phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiển chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nguyên nhân của những hạn chế là do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đầy đủ, chưa bộc lộ hết những mâu thuẫn nội tại và những mặt trái cơ bản của nó, gia cấp công nhân hiện đại chưa đủ trưỏng thành để trở thành gia cấp tiên phong.
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, các hình thức cộng đồng người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc và dân tộc. Thị tộc là cộng đòng người (khoảng vài trăm người ) có cùng huyết thống. Thị tộc là một đơn vị sản xuất chứat triển và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ. Cơ sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản. Họ cùng lao động và tài sản được chia đều cho tất cả các thành viên trong thị tộc. Lãnh đạo thị tộc là hội đồng thị tộc đứng đầu là tộc trưởng. Sau khi lực lượng xã hội phát triển, hình thức thị tộc mẫu quyền được thay thế bằng hình thức thị tộc phụ quyền. Sau Thị tộc là hình thức xã hội Bộ lạc. Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc, do có mối quan hệ huyết thống hôn nhân, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Trong xã hội tồc tại nhiều hình thức sở hữu cao hơn so với Thị tộc. Lãnh đạo bộ lạc cũng là những hội đồng các tộc trưởng các thủ kĩnh tối cao. Đặc trưng bộ lạc là có cùng ngộn ngữ tíc ngưỡng, cùng phong tục tập quán, cùng sống trên cùng một lãnh thổ. Trong xã hội nguyên thuỷ đây là hình thức xã hội tôt nhất để phát triển sản xuất. Dựa trên sở hữu tư nhân,bộ tộc ra đời thay thế cho hình thức bộ lạc và liên minh các bộ lạc. Bộ tộc là cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một lãnh thổ nhất định. Bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc, có tên gọi và những đặc điểm kinh tế văn hoá riêng, có vùng lãnh thổ tương đối ổn định. Đặc trưng và kinh tế, xã hội thời kì này là sở hữu tư nhân và chế đọ tư hữu ra đời, bộ tộc là xã hội có nhà nước tổ chức chính trị, xã hội có giai cấp đầu tiên được hình thành. Trong xã hội đó cùng với những điều kiện khách quan đã thúc đẩy quá trình hình thành một cộng đồng người thay thế bộ tộc, đó là sự xuất hiện dân tộc.
Dân tộc là cộng đồng dân cư hình thành th ành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên minh của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ. Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính trị và nhà nước, có tính thống nhất cao và ổn định , tương đối bền vững dựa trên nguyên tắc pháp lí cao, xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó dân tộc là một cộng đồng dân cư gồm có những đặc điểm thống nhất rất chặt chẽ. Thứ nhất là cộng đồng về lãnh thổ, là sự biểu hiện cụ thể về mặt chủ quyền của dân tộc trong mối quan hệ với dân tộc khác, được thể chế bằng luật pháp quốc gia và quốc tế. Thứ hai là cộng đồng về kinh tế, là nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc. Thứ ba là cộng đồng về ngôn ngữ, là công cụ quan trọng nhất trong giao tiếp của các dân tộc. Thứ ba là cộng đồng về văn hoá tâm lý, là yếu tố đặc biệt gắn kết cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất. Trên đây là những đặc trưng không thể thiếu được của mỗi dân tộc , là yếu tố có mối quan hệ nội lực mạnh mẽ.
Các hình thức cộng đồng chung của dân tộc có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của con người và xã hội. Dân tộc hình thành thực sự tạo ra động lực cho sự phát triển. Đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức dân tộc chính là đấu tranh vì sự phát triển và tiến bộ chung của nhân loại.
Trong “tác phẩm sáng kiến vĩ đại”, Lê nin định nghĩa “ Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khcs nhau về quan hệ của họ ( thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận ) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao dộng xã hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao dộng của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định,”1.
Như vậy sự ra đời và tồn tại ,của giai cấp gắn liền với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Giai cấp có những đặc điểm sau: khác nhau về địa vị xã hội, khác nhau về quan hệ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất xã hội, khác nhau về vai trò tổ chức quản lý sản xuất, khác nhau về phương thức vầ quy mô thu nhập những sản phẩm lao động xã hội. Trong những đặc điểm đó, sự káhc nhau về quan hệ đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất xã hội là quan trọng và quyết định nhất. Tập đoàn người nắm tư liệu sản xuâtsex trở thành giai cấp thống trị xã hội, tất yếu sẽ chiếm đoạt tài sản của các tập đoàn khác .Trong xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống thị và giai cấp bị trị, còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính kịch sử. Nó luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
Có hai nguyên nhân để hình thành giai cấp, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là nguyên nhân kinh tế. Trong xã hội nguyên thuỷ , lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống dựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện. Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động tăng , phân công lao động từng bước được hình thành , của cải dư thừa xuất hiện , những người có chức quyền ttrong bộ lạc, thị tộc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chình là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp. Do có của cải dư thừa, những tù binh bắt được trong chiến tranh được những người giàu có, có địa vị trong xã hội dùng làm nô lệ phục vụ. Như vậy sự tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời của giai cấp. Sự tồn tại của giai cấp đối kháng gắn liền với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa .
Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế trong lịch sử. Mỗi kiểu xã hội đó có kết cấu xã hội – giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội – giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau; đó là chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, địa chủ và nông nô trong xã hội phong kiến, tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chư nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế đọ kinh tế - xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản, nỗi kết cấu xã hội – giai cấp còn bao gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong mỗi tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ, có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất mới, trong tương lai( như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trương thủ công trong xã hội phong kiến giai đoạn cuối ). Ngoài ra bất cứ xã hội nào có giai cấp cũng có những tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư sản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội chính trị văn hoá, đó là tầng lớp trí thức. Nhân tố chi phối các tâng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp trung gian ngả về phía giai cấp thốch trị hay giai cấp bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp, Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản”2. Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột. Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội ngày sâu rộng của lực lương sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng tiến bvộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho phương thức sản xuất cũ, cho những lợi ích gắn liền quan hệsản xuất lỗi thời lạc hậu. Đấu tranh giai cấp - một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển cua sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lựcthúc đảy sự phát triển của toàn bộ đời xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen dã chứng minh rằng , đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội, vì vậy, “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”3 . Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng.Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài ngườiđạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp . Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội. Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đáu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền , thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giaicấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”4. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực , vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành qủa cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo dẩm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn , trên cơsở đó thủ tiêu chế đọ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chr, văn minh. Đó vừa là mục tiêu , đồng thời là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
Quan hệ giai cấp – dân tộc, giai cấp – nhân loại.Trong một cộng đòng dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và các tầng lớp xã hội kháccùng chung sống. Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của tất cả các giai cấp, các lực lượng xã hội sống trong cộng đồng ấy. Mỗi một giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào có lợi ích gắn liền với phương thức sản xuất thống trị , sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.
Tuy nhiên, trong cac xã hội và những phương thức sản xuất tồn tại trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của dân tộckhông phải khi nào cũng thống nhất, thậm chí nhiều lúc trái ngược và đối lập với lợi ích dân tộc. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất thuộc về quyền sở hữu chung của toàn xã hội, khi ấy lợi ích giai cấp về cơ bản phù hợp với lợi ích của cả công đòng dân tộc. Đương nhiên, sự phù hợp được thể hiện trong quá trình giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn. Ngày nay , chừng nào trong xã hội còn giai cấp đối kháng, và đấu tranh giai cấp , vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập trường giai cấp quyết định.
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả loài người, chẳng hạn những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, vấn đề dân số, chống lại các loại dịch bệnh đe doạ sự sống của cả nhân loại. Lợi ích nhân loại là những nhân tố dấp ứng yêu cầu phát triển của loài người mọi quốc gia, không phân biết sự khác nhau về giai cấp , dân tộc, tôn giáo.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp , lợi ích nhân loại là không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại. Các giai cấp phản động đối với lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích của nhân loại. Chủ nghĩa Mác_Lênin chỉ ra rằng , muốn giải phóng mình , giai cấp vô sản phải giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản . Vì vậy , lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện moéi của xu thế quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng , hiện nay và trong thời kỳ quá độ của nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong đều kiện mới với những nội dung mới và bằng những hình thức mới. Bởi vì cùng với nhưng biến đổi to lớn về kinh tế xã hội , dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, nó khác với thời kỳ chác mạng dân tộc dân chủ trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền . Mối quan hệ giữa các giai cấp , sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh dạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chư nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với đấu tranh bảo vệ dân tộc, chống áp bức bất công chống bóc lột, chông đói nghoè lạc hậu, khắc phục tình trạng đói nghoè, kém phát triển. Vì vậy, nội dung chủ yếu của đấu tranh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa , khắc phục tình trạng nước nghèo , kém phát triển, thực hiẹn công bằng xã hội, chống áp bức , bất công, đấu tranh ngăn chặn , khắc phục nững tư tưởng và hành đọng tiêu cực , sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch ; bảo vệ độc lập dân tộc , xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phông vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng ta cung khẳng định : Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí trức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà với lợi ích cá nhân , tập thể và xã hội , phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đã có bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trình đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức. Trong bối cảnh Liên Xô Đông Âu sụp đổ , hệ thống trong bối cảnh Liên Xô Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang bị thoái trào tạm thời, chủ nghĩa tư bản đang tạm thời khắc phục những hạn chế và đang chiếm uy thế trên nhiều mặt quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không còn trực diện như thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc mà nó ẩn giấu đằng sau qua các cuộc đấu tranh về kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không chỉ là đấu tranh bảo vệ chính quyền mà còn định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.Những nội dung mà đấu tranh giai cấp Việt Nam cần thực hiện: cũng cố chính quyền về tay nhân dân để chính quyền thật sự là của dân, do dân & vì dân, về kinh tế phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải thực hiện thành công công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Xây dựng thành công nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.Giải quyết vấn đề giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc.Phải sử dụng 1 cách có hiệu quả các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, chống lại các luận điểm sai trái, xuyên tạc lịch sử, giữ vững định hướng phát triển