Sau cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở các nước đang phát triển vào đầu những năm 1980, các nước quay sang khuynh hướng cho rằng không nên vay nợ quá nhiều từ các nước ngân hàng và các nước thị trường trái phiếu trên thế giới và nên tập trung thu hút các nguồn vốn không tạo nợ. Các nguồn đó chủ yếu bao gồm ĐTTT của nước ngoài (foreign direct invesment – FDI) và ở một mức độ nào đó, vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp (foreign indirect investment-FII). Ưu điểm về mặt tài chính của FDI nằm ở chỗ các đầu tư này chỉ đến các luồng tiền chuyển ra (chuyển lợi nhuận) khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, các dự án FDI có lợi nhuận. các khủng hoảng về cán cân thanh toán do phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính do đó ít xảy ra hơn trong trường hợp vay nợ. Trên phạm vi toàn cầu, quy mô của luồng FDI tăng đáng kể từ khoảng cuối thập niên 80.
Cũng sau cuộc khủng hoảng nợ ấy, việc cho vay tư nhân không còn được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng nữa. Đầu tư qua cổ phiếu chỉ cho phép kiểm soát được ít, hoặc hoàn toàn không kiểm soát được số tiền đã đầu tư, và độ rủi ro tương đối cao nếu diễn ra ở một nước đang phát triển, còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh va kỹ năng quản lý. FDI đã trở thành một công cụ năng động cho các nhà đầu tư nước ngoài.
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2213 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại TP HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I : Cơ sở lý luận chung về ĐTTT nước ngoài
1.1. Toàn cầu hóa và ĐTTT của nước ngoài:
Sau cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở các nước đang phát triển vào đầu những năm 1980, các nước quay sang khuynh hướng cho rằng không nên vay nợ quá nhiều từ các nước ngân hàng và các nước thị trường trái phiếu trên thế giới và nên tập trung thu hút các nguồn vốn không tạo nợ. Các nguồn đó chủ yếu bao gồm ĐTTT của nước ngoài (foreign direct invesment – FDI) và ở một mức độ nào đó, vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp (foreign indirect investment-FII). Ưu điểm về mặt tài chính của FDI nằm ở chỗ các đầu tư này chỉ đến các luồng tiền chuyển ra (chuyển lợi nhuận) khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, các dự án FDI có lợi nhuận. các khủng hoảng về cán cân thanh toán do phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính do đó ít xảy ra hơn trong trường hợp vay nợ. Trên phạm vi toàn cầu, quy mô của luồng FDI tăng đáng kể từ khoảng cuối thập niên 80.
Cũng sau cuộc khủng hoảng nợ ấy, việc cho vay tư nhân không còn được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng nữa. Đầu tư qua cổ phiếu chỉ cho phép kiểm soát được ít, hoặc hoàn toàn không kiểm soát được số tiền đã đầu tư, và độ rủi ro tương đối cao nếu diễn ra ở một nước đang phát triển, còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh va kỹ năng quản lý. FDI đã trở thành một công cụ năng động cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Sự gia tăng của các luồng FDI đầu tư trên thế giới, đặc biệt là giữa các nước giàu, phản ánh sự tái cấu trúc về mặt sản xuất trên phạm vi toàn cầu, là một phần của xu thế “toàn cầu hóa”. Một vài nguyên nhân dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa có thể được kể đến như:
(1). Thị trường toàn cầu : nhiều hàng hóa ngày nay được bán trên phạm vi toàn cầu để thỏa mãn nhu cầu chung của người tiêu dùng trên tòan thế giới. Mặt khác có nhiều sức ép buộc các nhà sản xuất liên tục đưa ra sản phẩm mới và không ngừng cải tiến chất lượng của sản phẩm hiện có. Điều này đòi hỏi một chi phí nghiên cứu và triển khai rất lớn mà chi phí này chỉ có thể thu hồi được trên một thị trường rộng lớn toàn cầu.
(2). Sản xuất trên toàn cầu : cạnh tranh ngày càng tăng buộc các nhà sản xuất phải hợp lý hóa việc sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận từ việc mở rộng quy mô sản xuất ra nhiều nước cũng như tận dụng nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ tiền của nước sở tại.
(3). Chính sách kinh tế hướng ngoại : việc ngày càng có nhiều nước áp dụng chính sách hướng ngoại và hướng vào thị trường làm cho chiến lược toàn cầu hóa trở nên dễ dàng hơn.
Quá trình toàn cầu hóa về nhiều mặt diễn ra ngày càng mạnh mẽ và những ưu điểm của chính loại hình ĐTTT so với hình thức vay nợ đã làm cho FDI ngày càng phát triển.
ĐTTT của nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà người chủ sở hữu vốn sẽ trực tiếp quản lý, điều hành,sử dụng vốn đầu tư đã bỏ ra. Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào các tiêu chí sau để quyết định đầu tư vào một nước:
Tỷ suất sinh lợi;
Sự ổn định chính trị và xã hội của nước chủ (nước nhận đầu tư nước ngoài );
Luật lệ hành chính và thuế khóa của nước chủ;
Các phí tổn giao dịch (Transaction costs) trong thương nghiệp;
Sự dễ dàng trong việc vận chuyển lợi nhuận ra khỏi nước chủ;
Cách giải quyết các tranh chấp giữa nước chủ và các nhà đầu tư nước ngoài.
Khác với loại hình đầu tư gián tiếp, các quan điểm truyền thống cho rằng FDI có những đặc trưng sau :
FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà bên cạnh đó còn có kỹ thuật, công nghệ, bí quyết công nghệ, năng lực tiếp thị, kinh nghiệm quản lý.
Việc tiếp nhận FDI chẳng những không làm gia tăng gánh nặng nợ cho nước chủ mà còn tạo điều kiện để phát huy tiềm năng kinh tế .
Chủ thể của FDI chủ yếu là các công ty đa quốc gia (Multinational corporation _MNC), chiếm 90% khối lượng FDI trên toàn thế giới. Phần còn lại của FDI thuộc về các nhà nước và các tổ chức quốc tế khác.
FDI được thực hiện với nhiều hình thức :
Xây dựng doanh nghiệp hoàn toàn mới ;
Mua lại doanh nghiệp đang hoạt động ở nước chủ nhà;
Tham gia vào các hợp đồng hợp tác kinh doanh ;
Góp vốn với đối tác của nước chủ nhà để thành lập công ty hoặc công ty liên doanh ;
Xây dựng – Vận hành _Chuyển giao (BOT) và các hình thức tương tự (BTO,BT,…).
1.2. Vai trò tích cực cũng như mặt hạn chế của FDI:
1.2.1. Vai trò tích cực của FDI :
Các công ty nước ngoài tính bình quân thường có lợi khi đầu tư tại các nước nghèo: kiếm được tỉ suất sinh lợi cao vì lương thợ thấp và được một thị trường mới.
Từ quan điểm của nước chủ, cũng có nhiều lợi ích từ dòng vốn trực tiếp của nước ngoài :
Đầu tư nước ngoài làm tăng việc làm và mức lương tại nước chủ
Công ty nước ngoài phải trả thuế cho nước chủ. Chính phủ nước chủ nhờ có thêm tiền thuế ( thuế lợi nhuận và thuế tiền lương) có thể quyết định tăng chi tiêu công. Nếu phần chi tiêu thêm này hướng về sự hình thành tư bản công như đường xá, cầu cống, trường học, … điều đó sẽ mang lại ảnh hưởng tốt và làm tăng tỉ suất sinh lợi của vốn tư.
FDI góp phần cung cấp vốn để bổ sung vào nguồn vốn đẩu tư của nước tiếp nhận và cũng tạo ra tác động tích cực đến việc huy động các nguồn vốn khác của nước tiếp nhận. Vốn FDI đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước khan hiếm ngoại tệ và có tỉ lệ huy động tiết kiệm nội địa thấp.
Cùng với việc cung cấp vốn qua thực hiện FDI của các MNC, các nước tiếp nhận có nhiều cơ hội tiếp thu kĩ thuật tiến tiến, công nghệ mới, kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực tiếp thị, đội ngũ lao động được đào tạo. , bồi dưỡng về nhiều mặt.
Thông qua sự phân công lao động quốc tế, các nước tiếp nhận FDI sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trướng thế giới, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới
FDI góp phần làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế các nước tiếp nhận hai hình thức : chuyển dịch cơ cấu ngành tức phân công lao động xã hội theo chiều ngang và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành tức phân công lao động theo chiều dọc, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách như : thất nghiệp, phát triển lưc lượng sản xuất, nợ nước ngoài, hòa thiện dần hệ thống pháp luật, các thủ tục hành chính và các phương thức mời gọi FDI
FDI của các nước MNC góp phần cải thiện cán cân thanh toán và các nước tiếp nhận đầu tư : MNC với ưu thế là có mạng lưới tiếu thụ ở nhiều nước góp phần làm gia tăng xuất khẩu của các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời FDI trong các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu cũng tiết kiệm được một khối lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu các mặt hàng này
FDI của các nước MNC đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc đầu tư kết cấu hạ tầng làm cơ sở cho công cuộc đổi mới tại các nước tiếp nhận đầu tư.
1.2.2. Mặt trái của FDI :
Tuy nhiên, bất cứ cái gì cũng có cái bất hại của nó và FDI cũng có thế gây một số mặt hạn chế như sau :
Tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước tiếp nhận vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa.
Các MNC thông qua FDI, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã thực hiện nhiều hành động tiêu cực, đặc biệt là hoạt động “chuyển giá”, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nước tiếp nhận FDI. Các nước MNC có thể định giá các yếu tố đầu vào thấp hơn giá thị trường và định giá các yếu tố đầu ra thấp hơn thị trường tối thiểu hóa số thuế phải nộp ghi trên hóa đơn của các nước đó. Điều này dẫn đến một hệ quả chắc chắn là các nước tiếp nhận đầu tư sẽ bị thất thu.
Tạo ra tình trạng phân phối thu nhập không đều ở các nước tiếp nhận
Các nước MNC trong một số trường hợp cũng thông qua FDI để xuất khẩu ô nhiễm môi trường sang các nước tiếp nhận những nơi mà pháp luật và những biện pháp bảo vệ môi trường còn lỏng lẽo và ít hữu hiệu.
Những cái mà FDI mang lại cho các quốc gia không hoàn toàn đồng nhất trong mọi không gian và thời gian mà tùy thuộc một phần rất lớn vào tính năng động chủ quan của các nước này. Nếu các nước tiếp nhận đầu tư có đầu óc chiến lược, sách lược kinh tế, đúng đắn thì vẫn có thể hạn chế những mặt tiêu cực, tranh thủ được những mặt tích cực của FDI.
1.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hút FDI từ Trung Quốc:
Chính sách mạnh dạn của Trung Quốc trong việc cải cách thị trường, bắt đầu từ năm 1979, đã đưa nước này đứng vào trong số những quốc gia hàng đầu trên thế giới về thương mại. Trong hai thập niên qua, Trung Quốc đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào, trung bình 10% một năm. Nếu tốc độ tăng trưởng cứ tiếp diễn thì rất có khả năng, Trung Quốc có thể sẽ trở thành một nền kinh tế lớn nhất thế giới trong. Dưới đây có thể khái quát một số vấn đề đáng tham khảo.
1. 3.1.Đóng góp của FDI:
Nguồn FDI vào Trung Quốc tăng, từ hơn 3 tỷ USD (năm 1990) lên 40 tỷ USD (năm 2000) và 53 tỷ USD (năm 2005).
- FDI có mặt ở nhiều ngành Công nghiệp của Trung Quốc, đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 7% năm 1990 lên 28% năm 2000. Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (gấp đôi so với doanh nghiệp nhà nước).
- Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa.
- Giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc.
1.3.2. Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc:
Những kỷ lục về thành tích thì thật ngoạn mục.Vậy một câu hỏi dĩ nhiên nảy sinh là những nguyên nhân nào dẫn đến kết cục thuận lợi này?
-Trước hết có thề nói, Trung Quốc có một thị trường rộng lớn, đặc biệt quy mô thị trường có tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu.
- Có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ Hồng Kông và Đài Loan.
- Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong khu vực.
- Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà nước.
1.3.3. Những tồn tại và khó khăn:
- Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75%, còn Trung Quốc chỉ chiếm 47% FDI.
- FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch phát triển giữa các vùng.
- Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hoặc nửa cuối những năm 1990 là khoảng 14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút ĐTTT nước ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của nước đi trước, đặc biệt là nước Trung Quốc, vì có những điểm tương tự với nước ta. Từ đó, có thể rút ra cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà các nước này đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng FDI ở TP.HCM.Thành tựu, hạn chế trong việc thu hút FDI của thành phố.
2.1. Thực trạng thu hút vốn ĐTTT nước ngoài của TP.HCM:
TP.HCM là một thành phố lớn của cả nước, đồng thời cũng là trung tâm phát triển nhiều mặt của Việt Nam. Do vị trí thuận lợi, giống như Thượng Hải của Trung Quốc, Osaka của Nhật Bản, TP.HCM trong nhiều năm qua được biết đến như là một trung tâm kinh tế và là một thị trường năng động nhất cả nước. Với nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống giao thông khá thuận lợi và hệ thống các khu công nghiệp tập trung đã và đang được xây dựng nên có sức hấp dẫn khá lớn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2009 TPHCM thu hút được khoảng 20 tỉ đô la.Tuy nhiên con số này chỉ bằng hơn một nửa so với năm 2008. Sự suy giảm này có nguyên nhân của suy giảm kinh tế toàn cầu, mặt khác những dự án lơn như lọc dầu, sản xuất thép, khu du lịch sinh thái với quy mô vài tỉ đô la/ dự án như năm 2008 sẽ ít đi. Đây chỉ là dựa vào số vốn được đăng ký. Nhưng thực ra vốn nước ngoài giải ngân để thực hiện dự án bằng khoảng một nửa vốn đăng ký
Trước hết là do một số dự án được cấp phép nhưng vì nhiều lý do không triển khai được, bị rút giấy phép với số vốn chiếm khoảng 10% tổng vốn đăng ký
Thứ hai, trong vốn đăng ký có phần góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, thường khoảng 30% tính cả các dự án 100% vốn nước ngoài (20% tổng vốn đăng ký) thì vốn góp của bên Việt Nam còn chiếm 20% tổng vốn đăng ký
Thứ ba, vốn pháp định hoặc vốn điều lệ mới là qui định có tính pháp lý buộc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thực hiện dự án, tỷ lệ này độ 40%. Còn lại 60% là vốn vay, trong đó khoảng 30% huy động trong nước, bằng 18% tổng vốn đăng ký.
Một khía cạnh khác. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, đầu tư ra nước ngoài giảm gần 50%. Nếu tính đến tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu thì vốn FDI nước ngoài giải ngân năm 2009 có thể giảm tới 20% so với năm 2008. Theo đó, vốn nước ngoài giải ngân bằng khoảng 80% của 8,5 tỉ đô la năm 2008, tức 6,8 tỉ đô la, tương đương 115.600 tỉ đồng. So với kế hoạch đề ra, vốn FDI giải ngân giảm 67.400 tỉ đồng (183.000 -115.600 tỉ đồng), chiếm 3,7% GDP. Tính toán trên cơ sở vốn đầu tư phát triển vẫn đóng góp khoảng 60% cho tăng trưởng, hệ số ICOR của năm 2009 là 6 thì riêng việc vốn FDI giải ngân giảm làm GDP mất 0,36 điểm phần trăm.
Trong các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép, có 84 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp, tổng vốn đầu tư 688,8 triệu USD, 77 dự án ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tổng vốn đầu tư 127 triệu USD, trong đó có 40 dự án đầu tư vào ngành công nghệ thông tin, 18 dự án đầu tư vào ngành xây dựng, vốn đầu tư 21,1 triệu USD và 14 dự án đầu tư vào ngành vận tải, vốn đầu tư 428,3 triệu USD, trong đó có 1 dự án mới được cấp phép là dự án liên doanh giữa cảng Sài Gòn và Công ty SSA Holding International- VietNam xây dựng và khai thác cảng container quốc tế với vốn đầu tư 160 triệu USD.
Được biết, có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại TP.HCM, trong đó Hàn Quốc có 51 dự án, tổng vốn đầu tư 102,7 triệu USD, Nhật Bản 37 dự án, vốn đầu tư 45,8 triệu USD, Singapore 20 dự án, vốn đầu tư 58,5 triệu USD, Đài Loan 16 dự án, vốn đầu tư 41,9 triệu USD, British Virgin Islans có 10 dự án, vốn đầu tư 285,8 triệu USD, Hong Kong 4 dự án, vốn đầu tư 606,6 triệu USD.
Và theo thống kê của Bộ kế hoạch Vốn đầu tư đạt trên 117 triệu USD (tăng gần 60%) so với cùng kỳ năm ngoái. Đài Loan luôn đứng đầu về số vốn và dự án đầu tư vào thành phố, với 335 dự án, kế đến là Hàn Quốc (254 dự án), đứng thứ 3 là Singapore với 152 dự án.
Với kết quả khả quan như trên, cùng những chính sách đổi mới sắp tới, thành phố có thể hút nhiều dự án với tổng số vốn đầu tư lớn hơn (hiện đã có những dự án vốn đầu tư vào TP HCM lên đến 80 triệu USD).
Mặc dù nguồn vốn của các dự án mới đổ vào TPHCM giảm mạnh, nhưng những doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên địa bàn thành phố vẫn tiếp tục tăng vốn mở rộng đầu tư, với nguồn vốn tăng cao.
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2009 có đến 114 doanh nghiệp tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm đạt trên 370 triệu đô la, tăng 3,4% so với năm ngoái. Điều này chứng tỏ mặc dù tình hình kinh tế khó khăn, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động vẫn tăng vốn mở rộng đầu tư, một tín hiệu cho thấy môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng.
Cụ thể như Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam đã tăng thêm 11,2 triệu đô la Mỹ để xây nhà xưởng sản xuất các sản phẩm chăm sóc gia đình tại khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi; Công ty Nidec Tosok Việt Nam tăng thêm hơn 23,7 triệu đô la Mỹ, nâng tổng vốn đầu tư của công ty lên gần 110 triệu đô la Mỹ; Công ty TNHH Nhà máy bia Việt Nam (VBL) vừa công bố sẽ nâng tổng công suất từ 230 triệu lên 280 triệu lít /năm, sau khi lắp đặt thêm cho nhà máy ở Hốc Môn (TPHCM) một dây chuyền chiết lon lớn nhất và nhanh nhất Việt Nam trị giá 21 triệu đô la Mỹ...
Trong bối cảnh khó khăn về thu hút đầu tư nước ngoài như hiện nay nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng vốn mở rộng đầu tư cho thấy tình hình thu hút đầu tư vào thành phố vẫn còn nhiều điểm sáng. Theo số liệu của Sở Kế hoạch - Đầu tư TPHCM, từ đầu năm đến nay TP đã thu hút khoảng 1,3 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nhiều dự án đang chờ cấp phép.
Thành công của các doanh nghiệp đang hoạt động này sẽ tiếp tục góp phần quảng bá thiết thực đến các nhà đầu tư nước ngoài mới khác đang có ý định làm ăn với Việt Nam.
2.2. Các nhân tố thu hút FDI tại TP.HCM:
2.2.1. Các nhân tố quan trọng trong việc quyết định đầu tư vào một địa phương:
Một cách tổng quát, các nhân tố liên quan đến chính sách tạo điều kiện cho chính quyền đối với FDI và mội trường kinh doanh, chất lượng của thế chế và các cam kết về mở của, tiềm năng thị trường, sự ổn định kinh tế vĩ mô, chi phí thấp là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến quyết định lựa chọn địa điểm nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả cho thấy là các yếu tố lao động phổ thông nhiều, gần nguồn nguyên liệu, mức độ cạch tranh không phải là các nhân tố quyết định của nhà đầu tư FDI.
2.2.2. Đánh giá của các công ty FDI về môi trường đầu tư:
Các nhà đầu tư nước ngoài không hài lòng ở các lĩnh vực như: trả lời của các cơ quan chức năng với các câu hỏi của nhả đầu tư: Mức đáp ứng dịch vụ công cộng của cơ quan chức năng; Việc thực hiện chính sách của thành phố tại cấp quận/huyện; Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, viễn thông; Mức giá thuê đất; công bố thông tin; thu nhập cá nhân. Mặc dù các yếu tố như sự quan tâm của lãnh đạo thành phố về thu hút FDI, cải thiện thủ tục cấp giấy phép đầu tư của Thanh phố được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, nhưng thực sự chưa có lĩnh vực nào được các nhà đầu tư hài lòng ở mức cao.
2.2.3. So sánh các yếu tố thu hút FDI giữa thành phố và các tỉnh lân cận:
Các vấn đề không thuận lợi của thành phố trong thu hút FDI bao gồm những vấn đề tham nhũng, các loại thủ tục giấy phép và hành chính, chi phí về sử dụng hạ tầng cơ sở và điều kiện về hạ tầng cơ sở, nguồn nguyên liệu, mức độ cạnh tranh lớn, chính sách thuế. Lợi thế của thành phố trong thu hút FDI bao gồm: môi trường kinh doanh đa dạng, nhiều cơ hội kinh doanh; thị trường tăng trưởng cao; các dich vụ hỗ trợ kinh doanh ( tư vấn, quảng cáo…) phát triển mạnh; định chế tài chính, ngân hàng của địa phương phát triển. Đây là các thế mạnh rõ rệt của thành phố so với các đia phương trong vùng nhưng cũng không phải là thế mạnh của Thái Lan (Bangkok) và Trung Quốc (Thương Hải/Thâm Quyến). Một điều đáng lưu ý là vấn đề tham nhũng và các thủ tục hành chính của thành phố nghiêm trọng hơn đia phương như Bình Dương hay Đồng Nai.Đây là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến mội trường đầu tư của thánh phố. Hệ quả là trong những năm gần đây Thành phố bắt đầu thua kém các địa phương lận cận về thu hút đầu tư FDI.
2.3. Đóng góp quan trọng của FDI cho thành phố và nền kinh tế:
Với một nguồn vốn lớn chiếm gần 31,28% số dự án ; 24,35% tổng vốn đăng ký và 21,7% tổng vốn thực hiện của cả nước, trong gần 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12-2007, FDI đã đóng góp một phần q