Ngân hàng thương mại là một tổ chức có vai trò quan trọng, đó là trung gian tài chính trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng có mối liên quan chặt chẽ với nhau và với phần lớn dân cư, tổ chức kinh tế. Do đó sự tồn tại và phát triển của ngân hàng ảnh hưởng to lớn tới nền kinh tế và chất lượng của ngân hàng luôn là vấn đề đáng quan tâm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức và của bản thân mỗi ngân hàng. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro như rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, rủi ro thanh khoản song rủi ro lớn nhất mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng. Đây cũng là loại rủi ro có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả hệ thống ngân hàng và tới nền kinh tế. Vì vậy việc phòng ngừa và xử lý RRTD là một trong những công tác quan trọng, cần được quan tâm hàng đầu trong công cuộc bảo vệ sự an toàn vững mạnh của ngân hàng. Đó là lý do tôi chon đề tài: “GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT TP QUẢNG NGÃI” để làm báo cáo thực tập cho mình.
53 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3506 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại là một tổ chức có vai trò quan trọng, đó là trung gian tài chính trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng có mối liên quan chặt chẽ với nhau và với phần lớn dân cư, tổ chức kinh tế. Do đó sự tồn tại và phát triển của ngân hàng ảnh hưởng to lớn tới nền kinh tế và chất lượng của ngân hàng luôn là vấn đề đáng quan tâm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức và của bản thân mỗi ngân hàng. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro như rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, rủi ro thanh khoản… song rủi ro lớn nhất mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng. Đây cũng là loại rủi ro có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả hệ thống ngân hàng và tới nền kinh tế. Vì vậy việc phòng ngừa và xử lý RRTD là một trong những công tác quan trọng, cần được quan tâm hàng đầu trong công cuộc bảo vệ sự an toàn vững mạnh của ngân hàng. Đó là lý do tôi chon đề tài: “GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT TP QUẢNG NGÃI” để làm báo cáo thực tập cho mình.
Mục đích nghiên cứu
Với mục đích hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về RRTD và các phương pháp hạn chế RRTD và trên cơ sở phân tích, tìm hiểu về rủi ro tín dụng mà chi nhánh NHNo&PTNT TP Quảng Ngãi đang gặp phải, đưa ra một số giải pháp đối với ngân hàng, cũng như một số kiến nghị với các cơ quan Nhà nước và với NHNN nhằm hạn chế rủi ro tín dụng với chi nhánh nói riêng và với cả hệ thống ngân hàng nói chung.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu là hoạt động quản trị rủi ro tín dụng mà chi nhánh NHNo&PTNT TP Quảng Ngãi đang thực hiện trong thời gian từ năm 2010-2012 cũng như các kết quả mà chi nhánh đạt được.
Phương pháp nghiên cứu
Qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh khái quát hóa và phương pháp tổng hợp, kết hợp với việc sử dụng số liệu thống kê và mô hình ước lượng để luận chứng, chỉ ra những khó khăn, hạn chế trong công tác quản trị rủi ro của chi nhánh, từ đó có cơ sở để đưa ra kiến nghị và giải pháp.
Kết cấu bài nghiên cứu
Kết cấu bài viết bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT TP Quảng Ngãi.
Chương 5: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT TP Quảng Ngãi.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức thực tế không nhiều, bài viết của em còn nhiều điểm chưa được đề cập đến và còn nhiều thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Chương 2
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Rủi ro tín dụng
Khái niệm RRTD
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội… Hơn nữa ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay, mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối… Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng nên ngân hàng phải chịu rất nhiều rủi ro: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, RRTD… Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất.
RRTD có thế được hiểu là những rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hay gián tiếp) cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn các khoản gốc và lãi vay hay mất khả năng thanh toán. RRTD không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay liên ngân hàng, thuê tài chính…
Khi gặp RRTD, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả. Khi gặp RRTD, ngân hàng sẽ dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin đối với người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng.
Phân loại RRTD
Phân loại RRTD theo hình thức của rủi ro
Sơ đồ 2.1: Phân loại RRTD theo hình thức của rủi ro
Rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro chọn lựa
Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro danh mục
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập trung
Rủi ro giao dịch bao gồm:
Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
Rủi ro bảo đảm: phát sinh tờ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản bảo đảm, chủ thể bảo đảm, cách thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản bảo đảm.
Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục bao gồm:
Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
Phân loại RRTD theo cấp độ rủi ro
Sơ đồ 2.2: Phân loại RRTD theo mức độ của rủi ro
Không thu hồi được
lãi đúng h ạn
Không thu hồi đươc vốn đúng hạn
Không thu được đủ lãi
Mất vốn
Không thu được lãi đúng hạn: Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả lãi đúng hạn, khi đó ngân hàng sẽ ghi nhận phần lãi phải thu đó vào chi phí, đồng thời tiếp tục theo dõi lãi phải thu này trên tài khoản ngoại bảng. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp nhất.
Không thu được vốn đúng hạn: Trong trường hợp này thì một lượng vốn vay có thể bị mất. Khi đó, Ngân hàng phải ngừng tính lãi và chuyển nợ gốc sang theo dõi ở nhóm nợ thích hợp. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mục mất mát của Ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra.
Không thu được đủ lãi: Nó thể hiện tình hình kinh doanh của khách hàng đã kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng tất toán tài khoản lãi phải thu đang theo dõi trên ngoại bảng
Không thu hồi đủ vốn cho vay: Đây là tình huống xấu nhất đối với Ngân hàng khi Ngân hàng bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi và có thể dùng các biện pháp như sử dụng tài sản bảo đảm để thu hồi vốn vay.
Dấu hiệu nhận biết RRTD
RRTD ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng, các nhà ngân hàng đã rút ra một số dấu hiệu cơ bản giúp cho CBTD nhận biết, phán đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực sự có thể xảy ra. Có những dấu hiệu cơ bản như sau:
Nợ quá hạn
Trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thì nợ quá hạn là nhân tố gây rủi ro lớn nhất. Do đó, để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng thì ngân hàng cần giữ cho tỷ lệ nợ quá hạn ở mức hợp lý.
Nợ quá hạn có nhiều loại, tuy nhiên nếu dựa vào khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn ra thành hai loại là nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ đến hạn thanh toán, vì nhiều lý do khác nhau mà khách hàng chưa có khả năng thanh toán, nhưng các phân tích chủ quan của Ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được nợ.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là nợ quá hạn không thể thu hồi sau khi phân tích các khả năng thu hồi. Trong trường hợp này, Ngân hàng được phép trích các quỹ đặc biệt để bù đắp.
Lãi treo
Lãi treo là số tiền mà khách hàng không có khả năng thanh toán khi đến hạn thanh toán lãi. Lãi treo cũng là một dấu hiệu để nhận biết RRTD, bởi vì việc thanh toán lãi có thể không gắn với việc hoàn trả lại gốc và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều và thường được thanh toán theo kỳ (theo tháng, quý…). Khi khách hàng không thanh toán được lãi của món vay cho thấy dấu hiệu khách hàng gặp khó khăn về tài chính.
Do vậy, khi xuất hiện lãi treo, Ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân tích kỹ tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình SXKD của khách hàng để tìm ra nguyên nhân tại sao khách hàng không có khả năng thanh toán lãi đúng hạn. Dựa vào kết quả phân tích, Ngân hàng sẽ đưa ra những biện pháp phù hợp nhất để hạn chế tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng.
Một số dấu hiệu khác.
Việc trì hoãn nộp các BCTC của người vay.
BCTC là tài liệu quan trọng giúp Ngân hàng hiểu được tình hình tài chính của người vay, qua đó dự báo về khả năng trả nợ của họ. Việc trì hoãn có nhiều nguyên nhân song cần xem xét đến nguyên nhân chính là do tình hình hoạt động kinh doanh của người vay có những dấu hiệu không bình thường nên họ không muốn Ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang kém của họ.
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và người vay thay đổi.
Đó là sự chậm trễ trong việc sắp xếp các cuộc viếng thăm của Ngân hàng đến doanh nghiệp, nhằm giúp ngân hàng kiểm tra, giám sát những nghĩa vụ của người vay đối với các khoản vay. Vấn đề này biểu hiện sự giảm sút bầu không khí tin cậy và hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và người đi vay.
Hoàn trả nợ vay không đúng hoặc lãi vay thanh toán không đúng hạn.
Các thảm họa thiên nhiên như bão lụt, hỏa hoạn…
Với việc xem xét tổng thể dựa vào cả các dấu hiệu trên, nhà quản trị ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát và rõ nét về tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng ở hiện tại và tương lai, những RRTD có thể gặp phải để có chính sách phù hợp nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng.
Hậu quả khi xảy ra RRTD.
RRTD làm giảm lợi nhuận của ngân hàng:
RRTD trực tiếp làm cho doanh thu của ngân hàng giảm do không thu được lãi vay, thậm chí không thu được gốc, làm thâm hụt đến vốn. RRTD còn làm ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng, tăng chi phí hoạt động của ngân hàng.
RRTD làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Vấn đề mà các ngân hàng phải đối mặt hường xuyên là vấn đề dòng tiền. Ngân hàng thực hiện nhận tiền gửi và cho vay, nếu các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ không đúng hạn, thậm chí gặp nhiều khó khăn trong khi đó, các khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn.
Rủi ro làm giảm uy tín ngân hàng
Nền tảng hoạt động của ngân hàng là dựa vào sự an toàn của ngân hàng đó, do vậy, khi một ngân hàng có mức độ rủi ro của các tài sản có cao thì ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín. Không một ai muốn gửi tiền vào một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn vượt mức cho phép, có chất lượng tín dụng không tốt. Điều đó sẽ khiến cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Rủi ro là nguy cơ dẫn đến phá sản của ngân hàng
Ngân hàng gặp RRTD đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư có lợi hơn ở một ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá nhiều người đến rút tiền dẫn đến sự phá sản thực sự của ngân hàng.
Hậu quả của sự phá sản ngân hàng không chỉ bản thân ngân hàng phải gánh chịu mà nó còn liên quan đến các ngân hàng bạn có quan hệ với ngân hàng. Điều đó sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng khác, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế.
Nguyên nhân dẫn đến RRTD
Nguyên nhân khách quan
Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như tới các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định sẽ khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua giảm sút, hàng hóa ứ đọng. Điều này làm cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó khăn cho một số khách hàng của ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, đã làm tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả các nguyên liệu đầu vào đều tăng, giá thành sản phẩm tăng cao khiến cho hàng hóa khó tiêu thụ được. Hơn nữa, việc chính phủ cho phép nhập khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở trong nước có thể sản xuất đươc sẽ làm hàng hóa trong nước bị cạnh tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất đình trệ….
Môi trường pháp lý: Nếu nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ và có hiệu lực sẽ làm mạnh hóa các mối quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp lý lỏng lẻo sẽ tạo nhiều kẽ hở, gây ra tình trạng mánh khóe, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán đối với ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan từ khách hàng vay.
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm dụng tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất nhưng không chú trọng đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh mở rộng mà chưa đổi mới tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Trình độ quản lý kinh doanh còn liên quan đến việc đánh giá rủi ro, việc không lường hết rủi ro cũng là nguyên nhân khiến khách hàng mất khả năng trả nợ.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khiến họ không chịu nổi sức ép của cạnh tranh và những thay đổi xấu từ nền kinh tế vĩ mô. Cũng vì nguyên nhân này nên vấn đề tài sản bảo đảm cho món vay luôn là vấn đề quan trọng để ngân hàng xem xét cấp tín dụng cho khách hàng.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Chính sách tín dụng của ngân hàng hướng đến khách hàng nào và lựa chọn khách hàng nào thể hiện mức độ ưa thích rủi ro của ngân hàng. Mỗi ngân hàng lựa chọn những hướng đi riêng, có ngân hàng sẵn sàng cho một khách hàng vay trong khi khách hàng đó không được lựa chọn ở ngân hàng khác.
Chính sách tín dụng cũng quy định về các chỉ tiêu quản lý rủi ro, chính sách về tài sản bảo đảm cũng như cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Ngoài những quy định bắt buộc của cơ quan quản lý nhà nước, mỗi ngân hàng tự xây dựng ra các chỉ tiêu để có một cơ cấu tín dụng hợp lý và an toàn phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng đó. Chính vì vậy có một chính sách tín dụng thỏa đáng giúp ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, đảm bảo an toàn cho những món vay, hạn chế rủi ro. Ngược lại, một chính sách tín dụng chưa sát sao có thể dẫn đến RRTD cho ngân hàng.
+ Trình độ nghiệp vụ, đạo đức của cán bộ ngân hàng chưa tốt
CBTD tham gia và quy trình tín dụng ở tất cả các khâu và đóng vai trò quan trọng trong tiếp xúc khách hàng, trong thẩm định tài sản và cả trong quyết định giải quyết nợ xấu. Mặc dù đã có các mô hình áp dụng sẵn để đánh giá khách hàng song chất lượng thông tin vẫn phụ thuộc vào người thu thập nó. Một chuyên gia tín dụng với những kỹ năng và kinh nghiệm sẽ đưa ra các phán đoán, quyết định đúng tùy trong từng hoàn cảnh. Ngược lại, sự yếu kém trong nguồn nhân lực sẽ làm gia tăng tính không chắc chắn, không trung thực của thông tin được phản ánh.
Công cụ đo lường rủi ro tín dụng chưa tốt, thông tin khách hàng không đầy đủ và không được cập nhật thường xuyên.
Công tác kiểm tra nội bộ trong ngân hàng không sát sao.
Sự hợp tác của các NHTM quá lỏng lẻo
Các chỉ tiêu đánh giá RRTD.
Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu
NQH là thước đo quan trọng nhất để đánh giá sự lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Do đó, ban quản trị ngân hàng cần nắm bắt rõ thực trạng tình hình nợ xấu, NQH của ngân hàng mình để đưa ra các giải pháp kịp thời và cần thiết.
Để đo lường tình hình nợ xấu, nợ quá hạn thường sử dụng các chỉ tiêu:
Tổng NQH
Tỷ lệ NQH =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này giúp ngân hàng biết được số NQH trong tổng dư nợ của ngân hàng, từ đó có những điều chỉnh phù hợp về cơ cấu, quyết định cho vay cũng như việc sử dụng các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất có thể cho ngân hàng. Thông thường, các ngân hàng có tỷ lệ NQH cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó càng thấp, mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt cao. Song tỷ lệ này chỉ phản ánh được thực trạng NQH của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, không phản ánh được cơ cấu NQH trong tổng dư nợ của ngân hàng, do đó, các nhà quản trị cần kết hợp nhiều chỉ tiêu khác nữa.
Số KH có nợ quá hạn
Tỷ lệ KH có NQH =
Tổng số KH có dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh số khách hàng có NQH trong tổng số khách hàng có dư nợ tại ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ biết được mức độ RRTD mà ngân hàng có thể gặp phải và sự tập trung RRTD vào nhóm khách hàng nào để ngân hàng có chính sách tín dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng khác nhau.
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu mà bất cứ nhà quản trị ngân hàng nào cũng phải quan tâm, nó phản ánh trung thực tình hình nợ xấu của ngân hàng, giúp ngân hàng đánh giá được mức độ tốt, xấu của khoản tín dụng đã cấp. Nợ xấu mới là vấn đề cần quan tâm nhiều nhất, do mức độ rủi ro của nợ xấu rất cao và nó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến các kế hoạch sử dụng vốn vay của ngân hàng. Khi tỷ lệ nợ xấu cao đồng nghĩa với việc ngân hàng có mức độ RRTD cao, vấn đề quản trị RRTD của ngân hàng mới thực sự có vấn đề.
Các nhà quản trị ngân hàng thông qua ba chỉ tiêu trên sẽ có cái nhìn cụ thể mức độ RRTD mà ngân hàng mình đang gặp phải, từ đó có những điều chỉnh về chính sách tín dụng, cơ cấu dư nợ hợp lý… để nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế RRTD cho ngân hàng.
Vấn đề trích lập và sử dụng dự phòng
Các ngân hàng trích lập dự phòng nhằm bù đắp những tổn thất của các khoản cho vay khi có rủi ro xảy ra, đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng có thể diễn ra liên tục. Ngân hàng phải trích lập dự phòng RRTD theo quy định của NHNN. Các chỉ tiêu đánh giá công tác trích lập và sử dụng dự phòng của ngân hàng là:
Dự phòng RRTD được trích lập
Tỷ lệ dự phòng RRTD =
Dư nợ cho kỳ báo cáo
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng bù đắp thiệt hại trên tổng rủi ro có thể xảy ra của ngân hàng, tỷ lệ này càng cao thì khả năng bù đắp thiệt hại của ngân hàng khi rủi ro xảy ra càng tốt.
Mất vốn đã xóa trong kỳ báo cáo
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ trung bình trong kỳ báo cáo
Đây là chỉ tiêu phản ánh số tiền thực tế mà ngân hàng đã dùng để bù đắp các khoản vay đã bị thiệt hại thực sự trên tổng dư nợ trung bình của ngân hàng. Như vậy, chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ số vốn ngân hàng đã mất càng lớn, thiệt hại cho ngân hàng càng cao
Dự phòng RRTD đã được trích lập
Hệ số khả năng bù đắp RRTD =
Nợ quá hạn khó đòi
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng bù đắp của ngân hàng đối với các khoản nợ có rủi ro cao – mà ngân hàng đã xác định không có khả năng thu hồi, đây là chỉ tiêu quan trọng giúp ngân hàng nhận biết và duy trì khả năng chống đỡ của ngân hàng. Một khi ngân hàng không đảm bảo được cho điều này thì ngân