Năm 2007 đã ghi dấu nhiều sự kiện vàng của đất nước. Đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đã mở ra cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều cơ hội đan xen không ít thách thức. Trong môi trường như vậy, một yêu cầu khách quan, cấp bách là phải nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt là các NHTM Nhà nước chủ lực để có thể cạnh tranh được với các NHTM nước ngoài là vấn đề hết sức thực tế và đang được quan tâm.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế liên quan tới lĩnh vực Ngân hàng, thời gian qua hoạt động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng đã được triển khai tích cực với những bước đi phù hợp với mức độ phát triển và đặc thù của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Hoạt động hội nhập quốc tế ngày càng được tăng cường, mở rộng và đi vào thực chất hơn. Mục đích của hội nhập quốc tế ngành Ngân hàng được xác định là nhằm tranh thủ thêm vốn, công nghệ, trình độ quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác tiền tệ Ngân hàng để xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, một hệ thống Ngân hàng Việt Nam có sức cạnh tranh hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó đòi hỏi các NHTM phải có năng lực tài chính vững mạnh. Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là chất lượng cho vay tại các ngân hàng hiện nay đang có xu hướng giảm sút: nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (XDCB). Theo thống kê của ngân hàng nhà nước cuối năm 2006, nợ quá hạn đối với lĩnh vực đầu tư XDCB chiếm 42% tỷ lệ nợ quá hạn. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng giảm doanh số cho vay đối với lĩnh vực này một lĩnh vực góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao điều kiện về cơ sở, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Như chúng ta đã biết, một trong những mục tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận. Do đó, nó đòi hỏi ngành ngân hàng phải có giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với đầu tư XDCB.
Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển (ĐT và PT) Việt Nam tiền thân là ngân hàng cấp phát vốn cho xây dựng vì thế khách hàng chủ yếu và truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp xây dựng. Tình hình nợ quá hạn, nợ khó thu hồi của doanh nghiệp xây dựng đang là vấn đề nhức nhối đối với ngân hàng, đặc biệt trong tình hình giá cả đầy biến động như hiện nay.
Nhận thức được điều này, trong quá trình thực tập tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị, đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại ngân hàng Đầu Tư và Phát triển chi nhánh Quảng Trị” là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay của ngân hàng.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về chất lượng cho vay của NHTM đối với
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT
chi nhánh Quảng Trị đối đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
77 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
(((
Năm 2007 đã ghi dấu nhiều sự kiện vàng của đất nước. Đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đã mở ra cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều cơ hội đan xen không ít thách thức. Trong môi trường như vậy, một yêu cầu khách quan, cấp bách là phải nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt là các NHTM Nhà nước chủ lực để có thể cạnh tranh được với các NHTM nước ngoài là vấn đề hết sức thực tế và đang được quan tâm.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế liên quan tới lĩnh vực Ngân hàng, thời gian qua hoạt động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng đã được triển khai tích cực với những bước đi phù hợp với mức độ phát triển và đặc thù của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Hoạt động hội nhập quốc tế ngày càng được tăng cường, mở rộng và đi vào thực chất hơn. Mục đích của hội nhập quốc tế ngành Ngân hàng được xác định là nhằm tranh thủ thêm vốn, công nghệ, trình độ quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác tiền tệ Ngân hàng để xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, một hệ thống Ngân hàng Việt Nam có sức cạnh tranh hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó đòi hỏi các NHTM phải có năng lực tài chính vững mạnh. Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là chất lượng cho vay tại các ngân hàng hiện nay đang có xu hướng giảm sút: nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (XDCB). Theo thống kê của ngân hàng nhà nước cuối năm 2006, nợ quá hạn đối với lĩnh vực đầu tư XDCB chiếm 42% tỷ lệ nợ quá hạn. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng giảm doanh số cho vay đối với lĩnh vực này một lĩnh vực góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao điều kiện về cơ sở, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Như chúng ta đã biết, một trong những mục tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận. Do đó, nó đòi hỏi ngành ngân hàng phải có giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với đầu tư XDCB.
Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển (ĐT và PT) Việt Nam tiền thân là ngân hàng cấp phát vốn cho xây dựng vì thế khách hàng chủ yếu và truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp xây dựng. Tình hình nợ quá hạn, nợ khó thu hồi của doanh nghiệp xây dựng đang là vấn đề nhức nhối đối với ngân hàng, đặc biệt trong tình hình giá cả đầy biến động như hiện nay.
Nhận thức được điều này, trong quá trình thực tập tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị, đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại ngân hàng Đầu Tư và Phát triển chi nhánh Quảng Trị” là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay của ngân hàng.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về chất lượng cho vay của NHTM đối với
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT
chi nhánh Quảng Trị đối đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
CỦA NHTM ĐỐI VỚI LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1.1 Khái quát về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1 Khái niệm lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội để mong thu được lợi ích trong tương lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên đây được gọi là vốn đầu tư. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư:
* Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại người ta phân chia thành: Đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực.
* Để phục vụ cho việc lập và thẩm định dự án đầu tư người ta thường quan tâm đến các loại đầu tư sau: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, đầu tư trong nước, đầu tư ra nước ngoài, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cơ bản.
Trong đó, đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB nhằm tạo ra các công
trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư. Đó là một hoạt động kinh tế.
Trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm...) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiên vận tải,...) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động là các tài sản cố định. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, tài sản cố định vô hình... Thông thường một tư liệu lao động được coi là một tài sản cố định phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản: Phải có thời gian sử dụng tối thiểu và phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả của từng thời kì.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động. Tài sản cố định được chia thành hai loại: tài sản cố định có hình thái vật chất (tài sản cố định hữu hình) và tài sản cố định không có hình thái vật chất (tài sản cố định vô hình). Để có được tài sản cố định, chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách như: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê,...
1.1.2 Đặc điểm của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
* Sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình như nhà máy, công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển... thường gắn liền với đất đai, kết tinh từ các thành quả khoa học - công nghệ. Đó là kết quả của nhiều ngành, nhiều tổ chức kinh tế xã hội như chủ đầu tư, doanh nghiệp xây dựng, các cơ quan tư vấn thiết kế, các công ty cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức dịch vụ ngân hàng, tài chính, các cơ quan quản lí của Nhà nước. Điều đó cho ta thấy muốn thành lập một dự án thành công tốt phải có sự phối hợp liên ngành, liên cơ quan và luôn nằm dưới sự quản lí của Nhà nước.
* Các công trình đầu tư xây dựng thường có vốn lớn. Vì vậy, chiến lược đầu tư xây dựng luôn là trọng điểm của Nhà nước. Chỉ riêng phần xây lắp những công trình bình thường, nhỏ cũng vài trăm triệu, lớn tới hàng chục tỷ đồng.
* Đầu tư xây dựng luôn gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế và mức sống của nhân dân. Khi kinh tế xã hội phát triển kéo theo sản xuất xây dựng phát triển đặc bịêt trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp và xây dựng dân dụng.
* Trong sản xuất xây dựng, người đầu tư và người sử dụng sản phẩm không phải là người thực hiện xây dựng. Trong đó luôn tồn tại những hợp đồng A - B và luôn cần hoạt động đầu tư giám sát.
* Sản phẩm xây dựng là những công trình gắn liền với địa điểm nhất định (bất động sản) do đó xây dựng chịu tác động của nhiều yếu tố địa phương. Địa điểm sản xuất luôn thay đổi, lực lượng sản xuất luôn phải di động, cơ cấu tổ chức xây lắp luôn phải thay đổi cho phù hợp với công trình làm tăng những chi phí gián tiếp.
* Đầu tư XDCB mang tính xã hội và thay đổi theo thời gian, nó chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán, trình độ văn hóa và quan điểm của người sử dụng.
* Thời gian xây dựng một công trình tương đối dài và ở ngoài trời nên chịu tác động của thời tiết, thị trường nên quá trình sản xuất khá rõ rệt. Việc tổ chức thực hiện xây dựng đòi hỏi phải luôn năng động, chính xác và nhạy cảm, đôi khi còn có một phần may rủi.
* Sản xuất xây dựng cần nhiều lao động sống, mà lao động lại là nguồn tài nguyên quý hiếm nên bài toán sử dụng lao động luôn luôn đặt ra với mọi phương án thi công.
* Công nghệ xây dựng biến đổi chậm, thị trường cạnh tranh khá tự do nên rất gay gắt.
1.1.3 Vai trò của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đối với nền kinh tế
Thứ nhất, đầu tư XDCB đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện, làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải đường sắt được nâng cấp; bệnh viện và trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề và các trường trung học phổ thông được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa.
Thứ hai, đầu tư XDCB góp phần phát triển kinh tế. Tốc độ và quy mô đầu tư XDCB tăng đã góp phần quan trọng vào tăng tốc độ GDP hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ ba, đầu tư XDCB đã góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. Trong những năm qua, công tác XDCB đã tập trung vào những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, thuỷ điện, bưu chính, viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học và giáo dục - đào tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ cấu. Nhiều dự án, công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông... đã trở thành những ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng đã tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động. Một trong những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta là làm sao giảm thiểu tối đa số người thất nghiệp. Doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB đã phần nào tạo điều kiện cho người trong độ tuổi lao động có công ăn việc làm ổn định. Nếu các chuyên gia xây dựng như tư vấn, thiết kế, giám sát... cần có trình độ cao thì tổ thi công cũng cần nhiều công nhân “chay”, một nguồn lao động có khá nhiều trong xã hội. Điều này đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, đảm bảo an ninh trật tư trong vùng miền.
1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1 Khái niệm và nguyên tắc cho vay của ngân hàng
1.2.1.1 Khái niệm
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, hoạt động cho vay được hiểu:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi ”.
1.2.1.2 Các nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng đồng thời nó cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời đòi hỏi các ngân hàng phải bám sát các quy định của ngân hàng Nhà nước một cách chặt chẽ. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN có hai nguyên tắc cho vay:
Thứ nhất: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc này đòi hỏi khách hàng phải cam kết sử vốn vay đúng mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định của ngân hàng cấp trên.
Thứ hai, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đây là điều kiện quan trọng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để đáp ứng cho vay, ngân hàng phải huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư với một lãi suất nhất định và ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi đã cam kết. Do đó, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện cam kết này. Vì lí do nào đó, khách hàng không hoàn trả hay hoàn trả chậm gốc hoặc lãi thì ngoài việc khách hàng chịu lãi phạt khách hàng còn khó khăn trong lần vay sau.
1.2.2 Vai trò nguốn vốn của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là “bà đỡ” của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp XDCB nói riêng. Như ta đã biết, đặc điểm của ngành xây dựng là sau khi nghiệm thu công trình nhà đầu tư mới quyết toán. Vậy trong khoảng thời gian chờ quyết toán đó, các nhà thầu sẽ xoay xở vốn ở đâu khi đại đa số các doanh nghiệp XDCB là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với vốn ít, công nghệ thiếu thốn. Điều tất yếu là các doanh nghiệp đó lại gõ cửa các ngân hàng để vay vốn.
Ngân hàng cho các doanh nghiệp xây dựng vay không chỉ để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân... mà còn đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ cho quá trình thi công nhanh, hiệu quả, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Nhờ có nguồn vốn ngân hàng mà các doanh nghiệp XDCB đã nắm bắt thời cơ trong các khâu lập dự án, đấu thầu, thi công công trình một cách nhanh chóng.
Giả sử rằng, lĩnh vực XDCB không có mặt nguồn vốn của ngân hàng thì các công trình có được hoàn thành hay không và hiệu quả của nó sẽ như thế nào? Hầu hết các công trình xây dựng đều cần đến nguồn vốn ngân hàng, không có một công trình nào xây dựng mà nhà đầu tư không vay vốn ngân hàng. Vậy vốn ngân hàng là chiếc cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp XDCB. Đến nay, không một doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò quan trọng của vốn ngân hàng.
1.2.3 Phân loại cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Phân loaị cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng. Liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Có nhiều tiêu chí để phân loại cho vay song đối với lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu có một số cách phân loại sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận đồng vốn đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo quyết địng số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, thời hạn cho vay được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
+ Tín dụng trung hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Tín dụng dài hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Tổ chức tín dụng và khách hàng căn cứ vào thời gian xây dựng, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng để thoả thuận thời hạn
cho vay.
Các khoản vay không xác định trước thời hạn như vay luân chuyển, khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Trong XDCB, các công trình cho vay chủ yếu là công trình của Nhà nước vì thế nó được cấp vốn hàng năm theo dự toán của ngân sách Nhà nước. Có thể năm nay Nhà nước bố trí được vốn cho công trình này nhưng năm sau chưa chắc phân bổ được. Vì thế cho vay ngắn hạn là một trong những giải pháp nhằm tránh rủi ro và đó là hình thức cho vay chủ yếu ở ngân hàng.
Thứ hai, cho vay theo tài sản đảm bảo
Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất song nó chứa đựng nhiều rủi ro nhất vì thế trong nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Lí do vì rủi ro luôn ẩn chứa trong quá trình xây dựng. Doanh nghiệp có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng vì các công trình chưa được thanh toán vốn hay thanh toán chậm. Những biến cố không mong đợi đó có thể gây ra cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, còn lại phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động cho vay không đảm bảo trả nợ.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo có hai loại cho vay sau:
* Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải có tài sản đảm bảo như cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
* Cho vay không có tài sản đản bảo: là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có sự tham gia bảo lãnh của bên thứ ba mà dựa trên lòng tin, uy tín của khách hàng để cho vay. Theo cách này thương áp dụng đối với khách hàng truyền thống, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh.
Thứ ba, căn cứ vào mục đích vay vốn
Mỗi khoản vay của khách hàng đều có một mục đích nhất định, ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng như thời gian, số tiền cho vay, thời hạn trả nợ... Theo căn cứ trên chia thành các loại:
* Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho khách hàng vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm các hàng hoá lâu bền như nhà cửa, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du lịch... đối với lượng khách hàng rộng lớn. Nguồn trả nợ cho ngân hàng là nguồn thu nhập khá ổn định của khách hàng.
* Cho vay kinh doanh, sản xuất: Gồm cho vay theo lĩnh vực thương mại - dịch vụ; lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực công - nông nghiệp.
Thứ tư, căn cứ vào phương thức cho vay
Đây là cách phân loại phổ biến của các NHTM. Theo cách thức này các doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB thường có một số cách vay sau:
* Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên không có điều kiện để được cấp thấu chi. Các công trình khi nào xác định được nguồn vốn thì chủ đầu tư mới vay vốn ngân hàng để thi công. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân và thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách thành mỗi hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nỗi theo thời điểm tính lãi.
* Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận với khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên tài sản, cơ sở kế hoạch xây dựng, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường