Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh vực quan trọng, quan hệ tín dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.Nhưng hoạt động tín dụng mang lại nhiều rủi ro nhất ngay cả đối với các khoản vay có tài sản cầm cố, thế chấp cũng được xác định có hệ số rủi ro là 50%.Trên thực tế, nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho vay có tài sản thế chấp và không vượt quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất. Thực ra quan niệm này là hoàn toàn sai lầm, bởi khi cho vay phải chú ý đến tình hình hoạt động và khả năng tài chính của công ty thì đó mới là vấn đề quan trọng nhất, còn thế chấp chỉ là một trong những điều kiện cần phải có để đảm bảo khả năng thu hồi khi khách hàng không trả được cho ngân hàng.
Hoà cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển trong những năm qua đã rất chú trọng tới hoạt động tín dụng và đang từng bước hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong lúc sự quản lý kinh tế, sự chuyển đổi cơ chế quản lý trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra hết sức phong phú và đa dạng. Song sẽ là không phải khi muốn hoàn thiện hơn mà lại không chấp nhận những phần còn thiếu sót còn tồn tại trong hoạt dộng tín dụng của mình.
Qua quá trình nghiên cứu, học tập, tìm hiểu để có thể tiếp cận, xâm nhập và từ những yêu cầu từ tiễn đặt ra, đặc biệt trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung được sự giúp đỡ và khuyến
khích của các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Quang Trung” để viết chuyên đề thực tập.
Chuyên đề thực tập được chia làm 3 chương:
Chương I: Những lí luận chung về tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và quan điểm về chất lượng tín dụng.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung.
50 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9077 | Lượt tải: 10
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Quang Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Quang Trung
SVTH: TRẦN ĐÌNH MINH GIANG
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán...
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh vực quan trọng, quan hệ tín dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.Nhưng hoạt động tín dụng mang lại nhiều rủi ro nhất ngay cả đối với các khoản vay có tài sản cầm cố, thế chấp cũng được xác định có hệ số rủi ro là 50%.Trên thực tế, nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho vay có tài sản thế chấp và không vượt quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất. Thực ra quan niệm này là hoàn toàn sai lầm, bởi khi cho vay phải chú ý đến tình hình hoạt động và khả năng tài chính của công ty thì đó mới là vấn đề quan trọng nhất, còn thế chấp chỉ là một trong những điều kiện cần phải có để đảm bảo khả năng thu hồi khi khách hàng không trả được cho ngân hàng.
Hoà cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển trong những năm qua đã rất chú trọng tới hoạt động tín dụng và đang từng bước hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong lúc sự quản lý kinh tế, sự chuyển đổi cơ chế quản lý trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra hết sức phong phú và đa dạng. Song sẽ là không phải khi muốn hoàn thiện hơn mà lại không chấp nhận những phần còn thiếu sót còn tồn tại trong hoạt dộng tín dụng của mình.
Qua quá trình nghiên cứu, học tập, tìm hiểu để có thể tiếp cận, xâm nhập và từ những yêu cầu từ tiễn đặt ra, đặc biệt trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung được sự giúp đỡ và khuyến
khích của các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Quang Trung” để viết chuyên đề thực tập.
Chuyên đề thực tập được chia làm 3 chương:
Chương I: Những lí luận chung về tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và quan điểm về chất lượng tín dụng.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung.
Chương I: Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng
1.1 Tín dụng và vai trò của tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính tùy theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể hiểu theo nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
+ Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Nói tóm lại trên cở sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả về điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2 Vai trò của tín dụng
Tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng to lớn đối với cả nền kinh tế. Trong nền kinh tế thường xuyên có sự không khớp về thời gian nhàn rỗi tiền giữa chủ thể thiếu vốn và chủ thể thừa vốn.
Bên cạnh đó không phải lúc nào những người đi vay cũng tìm được người có nhu cầu cho vay, và những người cho vay không phải lúc nào cũng tìm được người sẵn sang vay vốn để cho người cho vay có thể thu lãi trong tương lai. Hơn nữa hoạt động tín dụng trực tiếp này cũng tốn rất nhiều chi phí và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả người có đi vay và cho vay.
Vai trò của ngân hàng được công nhận là trung gian tín dụng, là cầu nối giữa người đi vay và cho vay, giúp họ giảm thiểu rủi ro và chi phí, tiết kiệm thời gian tìm kiếm tín dụng. Dòng vốn chảy ra từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn giúp cho dòng vốn được luân chuyển lien tục không bị ứ đọng đem lại hiệu quả cho cả hai bên và cho cả ngân hàng nữa. Điều này có ý nghĩa là ngân hàng sẽ đứng ra thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ nền kinh tế rồi sau đó lại cho vay lại nền kinh tế góp phần thúc đẩy tốc độ lưu thông hàng hóa và tái sản xuất xã hội.
Mặt khác thông qua tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cẩn thận để tăng cường hiệu quả và kiểm soát nguồn vốn cho vay sao cho có lợi nhất nhằm trả nợ ngân hàng trong tương lai, khai thác tốt nguồn vốn vay và có phương án kinh doanh phù hợp.
Tín dụng ngân hàng là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài thông qua các ngân hàng đại lý để phục vụ khách hàng quốc tế trong hoạt động thanh toán thẻ, cho vay các cá nhân và tổ chức nước ngoài . . .là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới.
1.1.3. Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động kinh doanh đa dạng và phong phú để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của khách hàng, phục vụ cho nhu cầu sinh lời của ngân hàng cũng như phân tán rủi ro, phù hợp với tính chất nguồn vốn huy động và đáp ứng nhu cầu quản lí . . .chính vì thế mà ngân hàng cần phải phân loại tín dụng.
Nội dung của phân loại tín dụng:
Phân loại theo thời hạn tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hoàn trả dưới một năm (một số nước quy định là dưới hai năm). Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng tạm thời về vốn lưu động nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt của hộ gia đình hay cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn hoàn trả từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định giúp cho doanh nghiệp cải tiến máy móc công nghệ mở rộng sản xuất các công trình nhỏ có chu kì thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn hoàn trả từ 5 năm trở lên, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đườn xá, bến cảng, sân bay . . .), cải tiến và mở rộng với quy mô lớn.
Phân loại theo đối tượng tín dụng:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại hình tín dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kì phiếu.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến đổi mới máy móc công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa bền chắc như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt.
Phân loại theo mức độ đảm bảo:
+ Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo hoặc người bảo lãnh đứng ra làm bảo lảnh cho khoản vay.
+ Tín dụng không có tài sản bảo đảm: là hình thức tín dụng không có tài sản đảm bảo hoặc người làm bảo lãnh cho món vay.
1.2. Chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại hàng hoá nào sản xuất ra cũng phải là những hàng hoá mang tính cạnh tranh. Điều đó có nghĩa là mọi loại hàng hoá sản xuất ra đều phải có chất lượng. Chất lượng của bất kỳ một loại hàng hoá nào cũng đều được thể hiện bằng giá trị sử dụng của nó. Muốn tạo ra được những loại hàng hoá mang giá trị sử dụng cao thì đòi hỏi người sản xuất ra chúng phải trả lời được 3 câu hỏi quan trọng. Đó là: sản xuất ra cái gì? cho ai cần chúng và sản xuất như thế nào? Và các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: “Chất lượng là sự phù hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó” hay “Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng”.
Từ những nhận xét như vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Chất lượng tín dụng thể hiện:
Đối với khách hàng: Tín dụng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng luôn đảm bảo các nguyên tắc tín dụng .
Đối với ngân hàng thương mại: Đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với phạm vi, mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng mình để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lãi.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phải luôn đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, là chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối, nó vừa cụ thể (Thể hiện qua chỉ tiêu có thể tính toán được: kết quả kinh doanh của ngân hàng, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (Thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế qua các ảnh hưởng xuôi và ngược...). Chất lượng tín dụng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan( khả năng, trình độ quản lý của cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi trong môi trường kinh doanh, xu hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị trường).
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài và thể hiện sức mạnh của một ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được nhiều khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn trong tín dụng cao, chi phí thấp...
- Chất lượng tín dụng không phải cái tự nhiên có mà nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa con người với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do đó chất lượng tín dụng cần có sự quản lý.
Để có chất lượng tín dụng cao, cần phải có sự quản ký chất lượng đồng bộ. Đây là một cách quản lý mới không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn cải tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ ngân hàng nhằm ngày càng thoả mãn đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong mọi công đoạn. Để làm được điều này mỗi thành viên trong ngân hàng thương mại cần phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất lượng tín dụng.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối rộng. Để có chất lượng tín dụng thì trong hoạt động tín dụng phải thực hiện có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín. Cụ thể hơn, chất lượng tín dụng là kết quả đạt được với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Một số chỉ tiêu thông dụng thường dùng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định lượng:
Các chỉ tiêu định lượng là các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng thông qua các con số từ hoạt động kinh doanh từ đó phân tích tổng hợp và rút ra mức đạt chung cho từng chỉ tiêu. Việc xem xét chỉ tiêu đó đã đạt được theo mức chung hay chưa và một số yếu tố khác sẽ đưa ra kết luận về chất lượng tín dụng của ngân hàng.
+ Tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng quan về khối lượng tín dụng hiện tại mà ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Tổng dư nợ bao gồm: nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn . . . Tổng dư nợ càng cao càng thể hiện quy mô ngân hàng lớn vì ngân hàng có lớn mới có cơ hội mở rộng.
Cho nên tổng dư nợ là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng vì tổng dư nợ thấp chứng tỏ quy mô nguồn vốn của ngân hàng là nhỏ, khả năng hoạt động tín dụng của ngân hàng là yếu kém, phòng kinh doanh và phòng marketing làm việc không có hiệu quả . . . do đó chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó là không cao.
+ Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khi khách hàng không hoàn trả đủ cả gốc và lãi khi đến hạn (thường là sau một số ngày chậm trả nhất định nếu khách hàng không trả được nợ thì sẽ bị các ngân hàng xếp vào nhóm nợ quá hạn). Tỷ lệ nợ quá hạn thường được xác định vào một thời điểm nhất định trong tương năm.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn thể hiện khả năng rủi ro tín dụng của ngân hàng đến đâu, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn hơn, mặc dù có thể là ngân hàng không gặp rủi ro mất vốn vì đã có tài sản bảo đảm nhưng không một khách hàng nào muốn vay vốn của ngân hàng ngân hàng đó cứ liên tục phát mại tài sản thế chấp của khách hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng làm cho vốn của ngân hàng bị đọng tại các khoản vay và làm cho chi phí cơ hội của ngân hàng tăng lên.
Nợ quá hạn xuất hiện là do nhiều nguyên nhân, có thể là do ngân hàng không xem xét kỹ khoản vay, đánh giá không chính xác thời gian sử dụng vốn cần thiết của ngân hàng, có thể do khách hàng gặp khó khăn tạm thời trong việc kinh doanh vì môi trường kinh doanh không thuận lợi, khách hàng cố tình không trả nợ cho ngân hàng . . . Vì nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn nên ta chia nợ quá hạn ra làm hai nhóm:
- Nhóm 1: nợ quá hạn có khả năng thu hồi
- Nhóm 2: nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
Hai nhóm chỉ tiêu này cho thấy chính xác hơn về mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng, trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn thì cho dù các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng có tỷ lệ nợ có khả năng thu hồi lớn thì vẫn được coi là có chất lượng tín dụng ổn định (với giả sử các yếu tố khác không đổi). Do đó khi đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng người ta thường quan tâm đến nhóm nợ cuối đó là: nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Vì chính ba nhóm nợ này tiềm ẩn nguy cơ mất vốn của của ngân hàng.
+ Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay:
Thu nhập từ hoạt động cho vay là phần gốc và lãi thu được từ cho vay, thu nhập từ xử lý tài sản đảm bảo nợ. Thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại vì đây là loại sản phẩm truyền thống của các ngân hàng. Ở nước ta khi mà hoạt động đầu tư của các ngân hàng còn kém sôi động thì thu từ hoạt động cho vay, thu nhập từ hoạt động truyền thống của họ chiếm gần 80% tổng thu nhập của các ngân hàng, do đó với một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt sẽ được thể hiện thông qua thu nhập từ hoạt động cho vay tăng trưởng ổn định. Một ngân hàng có chất lượng tín dụng thấp không thể có thu nhập từ hoạt động cho vay cao vì thu hoạt động cho vay bao gồm cả gốc và lãi khoản vay. Việc một ngân hàng có thu nhập từ hoạt động cho vay thất thường lúc cao lúc thấp là thể hiện ở chất lượng tín dụng không đảm bảo. Lợi nhuận do tín dụng mang lại cho ngân hàng khả năng phát triển và sự an toàn của đồng vốn cho vay:
Lãi từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Ta thấy nếu ngân hàng thương mại muốn tăng thu nhập từ cho vay thì không còn cách nào khác là phải mở rộng quy mô cho vay. Các ngân hàng cần cân nhắc lựa chọn một tỷ nợ quá hạn hợp lí để có thể mở rộng thu lời từ hoạt động cho vay mà vẫn đảm bảo được kế hoạch kinh doanh và an toàn trong kinh doanh.
+ Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng:
Đây là chỉ tiêu khá quen thuộc và quan trọng để đánh giá khả năng quản lí vốn tín dụng, chất lượng tín dụng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Hệ số này càng cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng này càng cao vì điều này chứng tỏ vốn vay của ngân hàng đã luân chuyển nhanh tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hệ số này còn chứng tỏ ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp một cách nhanh chóng cũng như có vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác. Tốc độ vòng quay vốn tín dụng cao cũng chứng tỏ khả năng quản lý rủi ro cũng như quản trị cô hội kinh doanh của ngân hàng là tốt.
+ Chỉ tiêu doanh số cho vay:
Là chỉ tiêu phản ánh tổng quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động của ngân hàng trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng của ngân hàng qua các năm. Nếu kết hợp doanh số cho vay của ngân hàng trong vài năm có thể thấy được xu hướng kinh doanh của một ngân hàng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định tính:
Bên cạnh các chỉ tiêu định lượng thì các chỉ tiêu định tính cũng tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Sau đây là các chỉ tiêu thông dụng và dễ đánh giá đó là các chỉ tiêu như sau:
+ Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm các bước và kĩ thuật cơ bản cần thiết mà các cán bộ tín dụng ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng phải tuân theo khi tiến hành hoạt động tín dụng. Một ngân hàng có quy trình tín dụng và chính sách cho vay hợp lí, cán bộ tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh từng bước của quy trình cho vay thì chất lượng tín dụng tại đó đảm bảo và ngược lại.
+ Khả năng cạnh tranh:
Khả năng cạnh tranh của ngân hàng có liên quan rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng vì với một ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao hơn thì sẽ chiếm lĩnh được phần thị trường tốt hơn và ngược lại năng lực phần thị trường của ngân hàng thấp thì ngân hàng phải chấp nhận phần thị trường có mức độ rủi ro cao hơn.
+ Tính bền vững:
Khi một khách hàng tin rằng ngân hàng đó có năng lực kinh doanh tốt thì họ sẽ tìm đến với ngân hàng, điều này đặc biệt đúng vơi người gửi tiền vì họ cho rằng ngân hàng hoạt động lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm hơn và khả năng kinh doanh tốt hơn. Việc huy động nguồn vốn đa dạng phong phú sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc cho vay được linh hoạt hơn và từ đó chất lượng tín dụng của ngân hàng đó cũng tốt hơn.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài:
Như chúng ta đều biết, tín dụng Ngân hàng là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại và đối với toàn bộ nền kinh tế. Để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả và đồng bộ đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải hiểu rất rõ các tác nhân bên ngoài gây nên các ảnh hưởng. Có thể chia các ảnh hưởng thành nhóm các yếu tố: kinh tế, xã hội, pháp lý.
+ Nhóm các nhân tố kinh tế:
Khái quát chung nhất thì nếu một nền kinh tế ổn định thì sẽ tạo điều kiện lưu thông hàng hoá và các vòng quay tiền tệ cũng trôi chảy và làm cho hoạt động tín dụng thuận lợi. Nền kinh tế ổn định là một nền kinh tế tạo được mọi điều kiện cho các doanh nghiệp ti